Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại, lập tức trợn tròn mắt lên.
Xi Vưu đang đứng ngay đằng trước, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút thế này. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”
Một tháng sau, bên bến sông Mân.
Cỏ biếc lưa thưa, hạnh hoa đọng tuyết, vầng tịch dương đỏ ối chênh chếch rọi mặt sông, ráng hồng chiếu xuống khiến nửa dòng sông đỏ rực, nửa kia lại biếc xanh. Giữa dòng tấp nập thuyền bè qua lại, một chiếc thuyền đậu bên bến sông.
Nhà thuyền hô lớn, chống sào chuẩn bị rời bến.
“Đợi đã! Nhà thuyền đợi đã! Cứu mạng cứu mạng!” Thiếu nữ áo xanh vừa chạy vừa thét.
Nhà thuyền đang chần chừ chẳng biết nên dừng hay không thì lại thấy một nam tử áo đỏ đuổi sát sau lưng thiếu nữ, hung hăng quát: “Đứng lại, cô đứng lại đó cho ta!”
Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, thói đời hiểm ác mà!
Y chậm tay chèo chốc lát đợi thiếu nữ áo xanh nhảy lên rồi lập tức ra sức khua chèo, đẩy thuyền lướt đi băng băng. Nào ngờ nam tử kia đã đuổi kịp vào phút chót, vừa hay nhảy được xuống thuyền.
Thiếu nữ áo xanh hốt hoảng, vội cố sức trốn vào giữa đám người.
Nam tử áo đỏ túm chặt lấy cô, “Ta xem cô còn trốn đi đâu?”
Nhà thuyền lặng lẽ nắm lấy con dao chặt củi giấu dưới sàn thuyền.
“Tây Lăng cô nương, ơn cứu mạng thật không có gì đền đáp, để ta lấy thân trả ân đi mà.” Nam tử áo đỏ có vẻ rất thành khẩn, trong khi thiếu nữ kia mặt ủ mày chau, con dao của nhà thuyền cũng khựng lại giữa chừng.
Nam tử áo đỏ ngoảnh lại trừng mắt nhìn nhà thuyền, “Ngươi cầm dao làm gì đó, có phải chúng ta định quỵt tiền đâu?” Nói đoạn hắn quăng một nắm tiền vỏ sò vào lòng y.
Thiếu nữ áo xanh đang định lẩn đi thì bị hắn kéo lại, “Xuống thuyền chúng ta sẽ tìm một quán trọ nghỉ ngơi rồi bàn tính chuyện chung thân đại sự.”
Thiếu nữ áo xanh dường như chán chẳng buồn phản đối nữa, chỉ ôm lấy tay nải ngồi phịch xuống.
Gã trai vẫn ngồi chồm hỗm bên cạnh nàng thao thao bất tuyệt: “Cô xem, ta dung mạo anh tuấn, gia tư giàu có, linh lực cao cường, đúng là ngàn người chọn một đó nha…”
Người trên thuyền đều đổ dồn mắt vào hắn, nhìn từ trên xuống dưới rồi từ dưới lên trên, nhưng vẫn không sao kết nối được kẻ đang ngồi trước mặt mình với hình ảnh hoa mỹ kia.
“Hơn nữa chúng ta ôm ấp cũng ôm ấp rồi, ở ngoài đồng hoang cô còn tựa lưng vào lòng ta, thân thể dán sát lấy nhau…”
Người trên thuyền lại dồn mắt về phía thiếu nữ áo xanh tỏ vẻ khinh miệt, hèn chi tên lưu manh kia tìm đến nàng, hóa ra nàng ta cũng thuộc phường sa đọa.
“Là ngươi áp ngực vào lưng ta, đâu phải ta tựa lưng vào lòng ngươi!” Thiếu nữ tái mặt quát.
Có khác gì nhau đâu? Người trên thuyền càng khinh bỉ nàng hơn.
“Là hắn bị thương nên tôi mới cõng…” Trước ánh mắt kỳ thị của mọi người, thiếu nữ áo xanh lí nhí phân bua, nghe như tiếng muỗi vo ve, rồi chẳng dám nhìn mặt đám người kia nữa, nàng đành ngẩng lên lặng lẽ hỏi trời xanh.
Thuyền đi chặng nào, nam tử áo đỏ kia lại thao thao chặng nấy, còn chưa cập bến thiếu nữ áo xanh đã nhảy tót lên bờ chạy mất.
Nam tử áo đỏ ngoảnh đầu nhìn về phía cuối trời như muốn xác định gì đó, chỉ trong nháy mắt, hắn cũng nhảy lên bờ đuổi theo thiếu nữ áo xanh, “Đứng lại! Đứng lại! Cô đứng lại cho ta!”
Nhà thuyền lắc đầu than thở, đúng là phong hóa suy đồi, phong hóa suy đồi mà!
Thiếu nữ thở hổn hển chạy vào quán trọ, vừa ngồi xuống đã thấy hắn chạy ào vào theo, ngồi đối diện với nàng.
Nàng liền hung hăng gọi đầy một bàn đồ ăn rồi chỉ nam tử áo đỏ bảo tiểu nhị: “Ta không có tiền đâu, cứ để hắn trả.” Lại ấn cốc nước vào tay hắn, “Ngươi nói suốt ngày chắc cũng khô cổ rồi, uống nước đi.”
Thiếu nữ áo xanh là Tây Lăng Hành, nam tử áo đỏ đương nhiên là gã lưu manh Xi Vưu mà nàng đụng phải gần Bác Phụ quốc.
Tây Lăng Hành dập tắt lửa cho Bác Phụ quốc rồi nhân nửa đêm chuồn thẳng, nào ngờ sẩm tối hôm sau lại gặp Xi Vưu, hắn cảm tạ ân đức của nàng, rồi nàng đã cứu hắn, cứu ca ca hắn, cứu đệ đệ hắn, cứu cháu hắn, cứu con chó của cháu hắn, cứu luôn cả chú chuột mà con chó đó chưa kịp vồ… Tóm lại là đã cứu cả nhà hắn, cứu cả Bác Phụ quốc, bởi vậy kẻ làm nam nhi như hắn phải báo ơn, vừa khéo đôi bên đã đụng chạm da thịt với nhau, lại vô cùng ăn ý, hắn đành hy sinh bản thân, lấy thân báo đáp thôi.
Thoạt đầu Tây Lăng Hành chỉ coi chuyện đó như trò cười, nhưng bị hắn đuổi riết suốt một tháng trời, nàng mới hiểu ra đây chẳng phải trò đùa mà là quyết định cố chấp của kẻ điên.
Nốc cạn một cốc nước đầy, Xi Vưu đang định cất tiếng thì Tây Lăng Hành đã nhanh tay nhét luôn cái đùi gà vào miệng hắn, “Oa! Chúng ta ăn cơm trước rồi bàn bạc chuyện ngươi lấy thân báo đáp sau nhé!”
Cả quán trọ nhốn nháo chợt lặng phắc như tờ, mọi ánh mắt dồn về phía hai người, tìm kẻ thốt ra câu đó.
Tây Lăng Hành cũng bắt chước mọi người nhìn ngang ngó dọc, vờ như không phải mình nói ra.
Mọi người liếc qua hai bọn họ rồi lại quay sang tiếp tục nói về chuyện hạn hán. Bỗng hai chữ “Thiếu Hạo” lọt vào tai Tây Lăng Hành, nàng liền dỏng tai lắng nghe.
Năm nay trời làm đại hạn, thiệt hại nặng nhất là vùng giáp ranh giữa Thần Nông và Cao Tân, đám nạn dân cùng đường họp nhau dậy loạn, dám giết hại cả Thần tộc khiến Tuấn Đế nổi giân, Đại vương tử Thiếu Hạo bèn chủ động xin đi trấn áp loạn dân.
Thiếu Hạo vốn đã vang danh thiên hạ từ một ngàn tám trăm năm trước. Nghe nói năm đó y một thân bạch y, một thanh trường kiếm, bức mười vạn quân Thần Nông quốc dưới chân thành phải thoái lui, phong thái hào hoa khiến anh hùng thiên hạ đều nghiêng mình kính nể, nhưng y tựa như vệt sao băng lướt qua trời, vừa thành danh đã tuyệt tích, hơn ngàn năm nay chưa từng xuất hiện giữa nhân gian.
Suốt ngàn năm nay, Thiếu Hạo đã trở thành một truyền thuyết. Nghe nói y thích ủ rượu gảy đàn, rượu y ủ có thể khiến kẻ sống quên sầu, người chết ngậm cười, đàn y gảy có thể khiến xuân về khắp chốn, muôn hoa đua nở. Thiếu Hạo còn thích nghề rèn, Cao Tân tộc vốn là Thần tộc chuyên chế tạo binh khí, phần lớn binh khí trên đời đều do thợ rèn trong tộc làm ra, mà thợ rèn giỏi nhất Cao Tân tộc chính là Thiếu Hạo, y thần lực cao cường, mỗi binh khí tạo ra đều là tuyệt thế thần binh, nhưng chẳng hiểu sao hễ thứ gì vừa ra lò, y liền tiêu hủy ngay lập tức, bởi vậy đến giờ cũng chưa ai được thấy binh khí do Thiếu Hạo chế ra, có điều Thần tộc vẫn tin chắc rằng Thiếu Hạo chính là tay thợ rèn ưu tú nhất.
Nhìn phục sức có lẽ kẻ đang nói là người Cao Tân, giọng điệu đầy vẻ sùng kính Thiếu Hạo, y hào hứng kể lể mà quên rằng nơi này dù sao cũng nằm trong biên giới Thần Nông quốc, khó tránh nhiều người Thần Nông thấy chướng tai, buông lời chế giễu: “Toàn nói láo!”
Như hòn sỏi ném xuống mặt hồ làm gợn lên ngàn đợt sóng, đám dân Thần Nông trong quán nhao nhao cả lên, mồm năm miệng mười gièm pha Thiếu Hạo, lúc thì nói chưa từng nghe Thần Nông phải đại quân tiến đánh Cao Tân, một mình Thiếu Hạo đời nào bức lui được mười vạn quân chúng ta, rõ ràng là người Cao Tân thổi phồng, lúc lại nói Thiếu Hạo sao bì nổi Chúc Dung, e rằng gặp phải Hỏa thần lại rối rít xin tha.
“Bọn Cao Tân rõ nực cười! Nếu Thiếu Hạo lợi hại thế, sao chẳng thấy y đến dự tiệc Bàn Đào của Vương Mẫu? Trừ cuộc chiến không biết là thật hay giả kia, y đã thắng được vị anh hùng nổi danh nào trên đại hoang đâu? Hỏa thần của chúng ta đã thắng liền cả trăm bữa tiệc Bàn Đào, đánh bại vô số cao thủ rồi đó!”
“Ta thấy Thiếu Hạo chắc chắn không dám gặp Chúc Dung. Còn xưng anh hùng gì chứ, chẳng qua là đồ cẩu hùng gan bé như chuột!”
“Chính thế, chính thế! Thợ rèn giỏi nhất cái nỗi gì, e rằng nhác thấy Chúc Dung đã quỳ gối xin tha mạng rồi!”
Thấy mọi người càng nói càng chướng tai, tay Lây Lăng Hành chợt run bắn lên làm rơi chiếc bát xuống đất vỡ choang, bấy giờ ai nấy mới nín lặng ngoảnh lại nhìn.
Tay Tây Lăng Hành vừa luống cuống lau vết bẩn bắn lên quần, vừa cười hỏi một thiếu niên Thần Nông tộc lên tiếng khi nãy: “Ngươi đã thấy binh khí Thiếu Hạo rèn chưa?”
“Dĩ nhiên chưa rồi!”
“Chưa nhìn thấy sao biết được y không phải thợ rèn giỏi nhất? Sao lại nói y gan bé như chuột, không phải đối thủ của Chúc Dung?”
Thiếu niên khinh khỉnh hỏi lại: “Thế cô thấy rồi à?”
Tây Lăng Hành vênh mặt: “Ta dĩ nhiên…” Bỗng nàng khựng lại một thoáng rồi hạ giọng, “Dĩ nhiên cũng chưa rồi!”
Thiếu niên thoáng cười nhạt, “Cô cũng chưa thấy thì dựa vào cái gì mà nói y là thợ rèn giỏi nhất? Làm sao biết y không phải gan bé như chuột, khiếp sợ Chúc Dung?”
Đám người trong quán đều cười rộ lên phụ họa.
Tây Lăng Hành cắn môi làm thinh.
Đột nhiên, một giọng già nua cất lên: “Truyền thuyết có lẽ không hoàn toàn là thực, nhưng dân chúng đại hoang này cũng chưa đến nỗi nói không thành có để tán dương Thiếu Hạo đâu.”
Mọi người nghe tiếng đều nhìn về góc quán, liền thấy một lão già để râu dê, lưng đeo cây tam huyền cầm, nét mặt khắc khổ, lão đứng dậy khom lưng với Tây Lăng Hành cùng Xi Vưu.
Té ra là lão già từng gặp trong Bác Phụ thành, Tây Lăng Hành bèn gật đầu đáp lễ còn Xi Vưu chỉ khoanh tay cười.
Thiếu niên quát lớn: “Lão già kia, mau qua đây nói cho rõ ràng, nếu có nửa lời mập mờ thì đừng trách chúng ta vô lễ!”
Lão già bước ra giữa sảnh thản nhiên ngồi xuống rồi vừa gảy đàn vừa nói: “Tuy vùng đại hoang vẫn có câu: ‘một núi, hai bước, ba vương tộc, bốn thế gia’ nhưng giờ đây thiên hạ chia ba. Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên thành thế chân vạc, bởi thế những kẻ rỗi hơi đi phân chia ngôi thứ cao thủ Thần tộc cũng chỉ nhắc tới con cháu của ba vương tộc mà thôi…”
Đám người trong quán đều chăm chú lắng nghe, chỉ mình Xi Vưu vừa ngấu nghiến gặm đùi gà vừa giơ bàn tay bóng nhẫy mỡ túm lấy Tây Lăng Hành hỏi: “Cái gì mà một hai ba bốn, lão nói lung tung gì thế?”
Mọi người đều trừng mắt nhìn hắn, lão già cười đáp: “Câu đó đề cập tới mấy thế lực lớn trong Thần tộc, ai nấy đều biết ba vương tộc là Thần Nông, Cao Tân, Hiên Viên; một núi ý chỉ Ngọc sơn còn hai nước là Hoa Tư và Lương Chử; bốn thế gia là Xích Thủy, Tây Lăng, Quỷ Phương, Đồ Sơn. Luận về lai lịch, một núi, hai nước, bốn thế gia còn lâu đời hơn cả ba vương tộc, có điều Ngọc sơn đã xuất thế, Hoa Tư và Lương Chử tuyệt mù tăm tích, các thế gia thì đều chỉ chăm chăm lo giữ thân nên đám phàm phu tục tử chúng ta dần quên lãng đó thôi.”
Xi Vưu gật đầu, đang định hỏi tiếp thì Tây Lăng Hành đã giữ lấy tay gã, ghé tai nói nhỏ: “Mấy chuyện này muốn kể rõ phải mất mấy ngày đêm, cứ nghe xem lão nói gì đã.”
Xi Vưu liền chơi ác, miết tay lên tay Tây Lăng Hành khiến tay nàng dính đầy mỡ, Tây Lăng Hành hậm hực cau mày bĩu môi trừng mắt nhìn thủ phạm, đột nhiên nàng nhoẻn cười tinh quái, bôi luôn bàn tay bóng nhẫy vào tay áo hắn.
Lòng bỗng xao động, hắn hạ giọng hỏi: “Vợ yêu, hình như cô có nhiều bí mật lắm thì phải, cô họ Tây Lăng, có quan hệ gì với Tây Lăng thế gia không thế?”
“Coi như có chút đi, ta có quan hệ huyết thống với họ nhưng không phải chi chính nên mới bị ngươi ức hiếp phải bỏ chạy đấy thôi!” A Hành cốc đầu hắn rồi ra dấu im lặng, tỏ ý bảo hắn đừng làm ồn, nghe xem lão kia nói gì.
“… Thời trẻ Thiếu Hạo rất mê rèn sắt, thường trà trộn vào những lò rèn dân gian học lén tay nghề của người ta. Nhưng nghề rèn không phải cứ quan sát là học được, mà phải trải qua trăm tu ngàn luyện mới thành. Thiếu Hạo liền lui về quê mở một lò rèn, chuyên làm cày cuốc cho nông dân, nồi niêu xoong chảo cho phụ nữ, vì sản phẩm rất tốt nên dân chúng bảy thôn tám xã xung quanh đều kéo tới lò của y. Suốt mấy năm làm thợ rèn, những người tới nhờ y sửa sang lại nông cụ chẳng ai biết y là Thiếu Hạo, mãi tới khi Tuấn Đế đời thứ sáu lâm bệnh nặng, Thần Nông thừa dịp dấy binh áp sát, Cao Tân nháo nhào đi tìm kiếm một lò rèn thì bà con quanh đó mới hay. Thần tộc Cao Tân hay kể chuyện Thiếu Hạo cởi áo ngắn, quăng thiết chùy, khoác vương bào, cầm trường kiếm một mình bức lui mười vạn đại quân Thần Nông, nhưng trăm họ Cao Tân lại thích thuật chuyện Thiếu Hạo rèn sắt hơn.
Lão già râu dê hớp một ngụm nước rồi hắng giọng kể tiếp: “Có lẽ vì thân phận đã lộ nên Thiếu Hạo không quay lại vùng quê đó nữa, nhưng nơi ấy sau cũng đổi tên thành Thiết Tượng Phô[1], một là để tưởng nhớ chàng thợ rèn Thiếu Hạo, hai là bởi lúc còn ở đó, mỗi khi có người tới xin học nghề rèn, y đều tận tâm chỉ dạy, khiến trong vùng nổi lên rất nhiều thợ rèn kỹ nghệ phi phàm, lò rèn mọc lên san sát, đám quý tộc Nhân tộc hay tới đó sắm vũ khí tùy thân để thể hiện địa vị, nhìn binh khí mấy vị tiểu ca ngồi đây mang theo người có vẻ bất phàm, e rằng cũng từ Thiết Tượng Phô mà ra.”
[1] Lò rèn. (ND)
Mấy gã thiếu niên sững người, bất giác đặt tay lên bội kiếm mà mình vẫn lấy làm tự hào. Lão già mỉm cười: “Cao Tân quốc trọng lễ nghĩa, phân chia đẳng cấp giàu nghèo rất rạch ròi, vậy mà Thiếu Hạo thân là vương tử tôn quý lại đi rèn nông cụ cho dân, còn tận tâm chỉ bảo những kẻ ham học hỏi. Hơn ngàn năm nay có vẻ như y lánh đời ở ẩn nhưng khắp Cao Tân nơi nào cũng có những truyền thuyết về việc y diệt ác trừ yêu, cứu khổ giúp yếu. Lần này việc trấn áp bạo dân rất tốn sức, lại chẳng được lợi lộc gì, các thần tiên khác tránh còn không kịp, vậy mà Thiếu Hạo chủ động xin đi, đủ thấy y nhất định không phải kẻ hèn nhát sợ sệt. Lão đây thấy mấy vị tiểu ca ăn mặc như sắp đi xa, những lời vừa nãy nói trên lãnh thổ Thần Nông thì chẳng sao, nhưng ngàn vạn lần đừng tức giận mà nói càn ở Cao Tân, muôn dân ở đó vô cùng kính trọng Thiếu Hạo, e rằng sẽ kích động dân chúng đó.”
Thấy mấy gã thiếu niên Thần Nông sa sầm mặt, lão già lại chuyển chủ đề: “Nói đến hạn hán chẳng thể không ca ngợi Đại vương cơ[2] Vân Tang của Thần Nông. Thần Nông và Cao Tân đều bị hạn hán nghiêm trọng nhưng vương cơ luôn thương xót muôn dân, dốc sức vì bách tính nên đến giờ Thần Nông chỉ phải chịu thiên tai chứ chẳng có nhân họa. Còn Cao Tân và Trung Dung vương tử không gánh vác nổi, dân chúng nổi loạn khiến các quan lại Thần tộc địa phương bị đánh chết, may giờ có Thiếu Hạo chủ động xin đi dẹp loạn, bằng không e rằng nhân họa còn dữ dội hơn thiên tai nữa kìa.”
[2] Vương cơ: Trước thời nhà Chu, con gái của đế vương và chư hầu đều gọi là vương cơ, từ thời nhà Chu trở đi, con gái thiên tử dần dần đổi sang gọi là công chúa, con gái của chư hầu hoặc thân vương gọi là quận chúa. (ND)
Bấy giờ vẻ mặt đám thiếu niên Thần Nông mới giãn ra, họ tránh không nhắc tới Thiếu Hạo nữa, chỉ nhao nhao tán dương Vân Tang lên tận mây xanh.
Tây Lăng Hành cúi đầu, chẳng hiểu đang nghĩ gì, vẻ mặt nửa mừng nửa lo.
Xi Vưu cũng có vẻ ngẩn ngơ, đột nhiên cau mày đứng dậy bước ra ngoài, đứng giữa đồng hoang nghiêng tai nghe ngóng.
Để trốn tránh Xi Vưu, Tây Lăng Hành đã phải thay đổi hành trình hết lần này sang lần khác, cũng hết lần này sang lần khác vô tình tránh khỏi Chúc Dung, nhưng lần này, dường như Chúc Dung đã nhận ra điều gì đó nên tìm thấy hành tung bọn họ rất nhanh, chắc hẳn không thể đánh bài chuồn được nữa, phải tính cách khác thôi.
Thấy Xi Vưu quay lại, Tây Lăng Hành liền hỏi: “Ngươi ra ngoài làm gì đó?”
Xi Vưu cợt nhả cười đáp: “Ta sực nhớ ra chuyện chung thân đại sự còn phải hỏi ý kiến cha mẹ nên vừa nãy đi nhờ người đưa tin về nhà, mời cha mẹ tới gặp cô.”
Tây Lăng Hành vừa hớp một ngụm canh nóng, nghe hắn nói liền mắc nghẹn, suýt nữa chết sặc. Nàng yếu ớt chỉ mặt Xi Vưu, giận đến nỗi không thốt nên lời.
Ăn xong bữa, hai người bèn chọn hai gian phòng sát vách nghỉ tạm.
Đêm xuống, Tây Lăng Hành nằm trên giường trằn trọc hoài không ngủ nổi, trong đầu cứ lởn vởn câu chuyện Cao Tân Thiếu Hạo xin đi dẹp loạn vừa nghe kể. Lại nghĩ tới gã khùng Xi Vưu, nàng rùng cả mình, quyết định bỏ đi ngay lập tức, lần này nàng muốn đi về hướng Đông, xem xem Cao Tân Thiếu Hạo mà mình đã nghe danh từ nhỏ đến lớn rốt cuộc ra sao.
Nàng quyết định khởi hành ngay giữa đêm để cắt đuôi Xi Vưu.
Lựa lúc đêm khuya người vắng, Tây Lăng Hành bèn khoác tay nải rón rén rời khỏi quán trọ.
Vừa đi vừa thấp thỏm, sau cùng Tây Lăng Hành dừng bước, ngoảnh sang phải rồi ngoảnh sang trái, thấy chẳng có ai cả, nàng vừa thở phào nhẹ nhõm, tươi cười quay đầu lại lập tức trợn tròn mắt lên.
Xi Vưu đang đứng ngay trước mắt, vẻ mặt bực bội, nghển đầu nhìn về phía sau nàng, dường như không hiểu sao nàng lại lén lén lút lút như thế. Hắn ghé tai Tây Lăng Hành căng thẳng hỏi: “Sao thế? Có tên vô lại nào bám đuôi chúng ta ư?”
Tây Lăng Hành hít sâu một hơi, lấy tay che mặt rồi cắm cúi cất bước, chẳng buồn liếc Xi Vưu, chỉ sợ mình không nhịn được sẽ giết luôn tên vô lại này.
Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo sau thở vắn than dài: “Có một chuyện thực hổ thẹn, vừa nãy ta nhận được tin bề trên trong nhà sai đi làm chút việc, e rằng phải xa cô mấy ngày rồi.”
Tây Lăng Hành lập tức bỏ ngay tay xuống, cười tươi rói: “Không sao không sao, nam tử hán đại trượng phu chí ở tứ hải, lòng theo ngũ hổ, công truyền thiên thu, đức lưu vạn tuế, chết để tiếng thơm, xả thân vì nghĩa… khụ… nói tóm lại là phải đặt đại sự làm trọng!”
Nét cười thoảng qua mắt Xi Vưu nhưng hắn vẫn làm bộ nhăn nhó: “Có điều ta nghĩ đi nghĩ lại thấy đi lo việc cũng quan trọng, mà báo ơn cũng rất quan trọng…”
Tây Lăng Hành liền tỏ vẻ buồn bã vỗ vai hắn: “Thật ra ta cũng chẳng nỡ xa ngươi, có điều phải đặt đại sự làm trọng!”
Xi Vưu rưng rưng cảm động, bèn nắm chặt tay nàng, “A Hành, thấy cô quyến luyến thế này, có lẽ ta sẽ ở lại!”
Khóe mắt bờ môi Tây Lăng Hành cùng lúc giật giật, “Ngươi sẽ ở lại thật chứ?”
“Sẽ ở lại thật đó!”
“Thật chứ?”
“Thật mà! Vì Tây Lăng Hành cô nương, ta tình nguyện…”
Tây Lăng Hành thình lình vung tay đấm bộp vào mặt Xi Vưu khiễn gã ngã lăn ra ngất xỉu.
Nàng ngồi xuống đắc ý vỗ vỗ má hắn, cười nhạt: “Tiểu tử thối! Chúng ta không hẹn ngày gặp lại!”
Khoác tay nải lên, nàng thấy cả người lâng lâng phơi phới, nhưng vừa tung tăng đi được một đoạn, nàng càng nghĩ càng thêm sợ, lỡ có kẻ xấu đi ngang qua thì sao? Lỡ thú dữ chạy tới thì thế nào? Lỡ…
Cuối cùng Tây Lăng Hành đành cuống cuồng chạy trở lại, nhưng gã Xi Vưu hôn mê nằm đó đã biến mất.
Nàng hoảng hốt dáo dác nhìn quanh tìm kiếm, nhưng vừa ngẩng đầu lên đã trông thấy một hàng chữ viết trên cây.
“Vợ yêu, chúng ta sắp gặp nhau rồi!” Cạnh đó còn vẽ một tên tiểu nhân áo đỏ đang cười toe toét.
Tây Lăng Hành nổi giận vung chân đá tên tiểu nhân kia một cái, lập tức kêu thét “ai da”, đau đến nỗi nghiến răng nghiến lợi, ôm chân nhảy lò cò.
Hai ngày sau, nàng bước vào địa giới Cao Tân quốc.
Sông ngòi cạn khô, đất đai cằn cỗi, xác chết đầy đồng, cảnh tượng nhuốm màu âm u. Tây Lăng Hành buồn bã ủ ê nhưng chẳng làm sao được bởi đây không phải nhân họa mà là thiên kiếp, dù là thần tiên cũng chẳng thể trái ý trời.
Không muốn nhìn cảnh tượng thê thảm đó thêm nữa, nàng bèn tránh những con đường lớn đông người tụ tập, cứ lựa rừng sâu núi thẳm mà đi.
Đi suốt một ngày, đang định kiếm nơi nghỉ chân, bỗng nàng nghe thấy tiếng trống thình thình đầy phấn khích. Lần theo tiếng trống mà đi, nàng lại nghe thấy giọng ca thánh thót cùng tiếng hoan hô của đám đông.
Tây Lăng Hành không khỏi mỉm cười rảo bước thật nhanh, nhưng khi bước vào ngôi làng cổ kính đó, nàng chẳng thấy cảnh tượng gì vui vẻ mà trái lại là sự tàn nhẫn khiến người ta kinh sợ.
Hai thiếu nữ trang điểm lộng lẫy nằm dài trên đàn tế, một cô bị mổ phanh bụng, đã tắt thở, thầy tế mang mặt nạ tay cầm chủy thủ đầm đìa máu, tay bưng trái tim còn phập phồng, vừa hát vừa múa, thiếu nữ kia nhắm nghiền hai mắt, khóe môi mấp máy liên tục, chẳng hiểu đang ca hát hay cầu nguyện.
Tây Lăng Hành từng nghe kể về những bộ tộc hiến tế cả người để cầu trời đất phù hộ. Đó là phong tục địa phương, nàng không sao thay đổi được, nhưng nàng cũng chẳng thể trơ mắt nhìn một thiếu nữ tươi tắn như hoa chết thảm ngay trước mặt mình.
Tây Lăng Hành vận linh lực nhổ bật vô số gốc cây khiến đám người quanh đài tế nháo nhác lo tránh né, rồi thừa cơ xông tới cứu luôn thiếu nữ trên đài bỏ chạy.
Nàng thiếu nữ đó tên Sách Mã, là cô gái thông minh nhất trong tộc nên bị chọn làm vật tế trước trận chiến để cầu thắng lợi.
Tây Lăng Hành hỏi: “Các người muốn chống lại quân đội do Thiếu Hạo thống lĩnh sao?”
Sách Mã đáp: “Tôi đâu biết mấy gã Thần tộc đó, tôi chỉ biết chúng giúp bọn quý tộc hà hiếp chúng tôi, chặn đứng mạch sông khiến chúng tôi mất nguồn nước uống, đều là đồ vô lại.”
Tây Lăng Hành gắng bênh vực Thiếu Hạo: “Vị thần đến đây lần này không giống bọn trước kia, y nhất định sẽ nghĩ cách giúp các người điều hòa lại nguồn nước chứ chẳng thiên vị đám quý tộc đâu, các người khỏi phải liều mạng kháng cự.”
Sách Mã trầm ngâm hồi lâu, đoạn cười nói: “Cô là thần tiên tốt, tôi tin cô! Đợi trời tối tôi sẽ lén về nhà nói với cha. Hảo tỷ tỷ, tôi thấy cô có thể sai khiến cây cô, cô tu luyện mộc linh ư?”
Tây Lăng Hành gật đầu.
Thấy trời sắp tối, Sách Mã liền vào rừng nhặt cành khô, rau dại về làm bữa tối cho Tây Lăng Hành. Nàng bảo cô ta đừng bày vẽ, nhưng Sách Mã đáp: “Cô cứu tôi mà tôi chẳng có gì báo đáp, đây là cách duy nhất tôi có thể làm để tạ ơn cô, bất kể cô ăn hay không tôi cũng phải làm.”
Sách Mã dùng mảnh đá lõm làm nồi, nấu một nồi canh rau rừng lạ miệng rồi đong đầy canh vào hai ống trúc, tự uống trước nửa ống, sau đó mới ngẩng lên nhìn Tây Lăng Hành, có vẻ nài nỉ.
Tây Lăng Hành chẳng nỡ từ chối, bèn cùng uống với cô.
Uống hết canh, nàng bỗng thấy đầu váng mắt hoa, linh lực ngưng trệ, vội hỏi, “Cô cho tôi ăn cái gì đó?”
Sách Mã lạnh lùng đáp: “Là một loại nấm hiếm trong núi, sinh trưởng giữa đám tro tàn sau trận sấm sét, nó vô hại với Nhân tộc chúng tôi nhưng những kẻ tu luyện mộc linh của Thần tộc nếu ăn vào sẽ mất hết sức lực, trở thành người phàm như chúng tôi vậy.”
Lần đầu tiên Tây Lăng Hành hiểu được tại sao Thần tộc vừa xem thường lại vừa kiêng dè Nhân tộc, không chỉ bởi Nhân tộc đông đúc mà còn vì trời đất vạn vật tương sinh tương khắc, ông trời từ lâu đã ban cho họ những bảo bối để khắc chế Thần tộc, chỉ cần vận dụng khéo léo thì con người cũng có thể đánh bại Thần linh, giống như con đê có thể ngăn dòng nước ào ào chảy xiết nhưng một tổ mối nhỏ cũng có thể phá hủy cả dải đê kiên cố vậy.
Tay Lăng Hành lặng lẽ nhìn Sách Mã, cô ta chẳng dám đối diện với ánh mắt nàng, bèn cầm một khúc cây, đập cho nàng ngất xỉu.
Sáng hôm sau, khi tỉnh lại, Tây Lăng Hành nhận ra mình đang bị trói trên đài tế mà Sách Mã nằm hôm qua, linh lực vẫn chưa hồi phục chút nào.
Tiếng trống thùng thùng rung trời chuyển đất, đám thầy tế đeo mặt nạ vây quanh nàng vừa hát hò vừa nhảy múa, ánh chủy thủ loang loáng khiến nàng hoa cả mắt.
Sách Mã nói với nàng: “Đem cô làm vật tế tốt hơn tôi, máu tươi của cô không những có thể tế trời đất, mà còn khiến cho tất cả chiến sĩ Nhân tộc thấy rằng Thần tộc chẳng có gì đáng sợ.”
Đám thầy tế ca vang một bài ca xưa cũ, vừa nhảy múa vừa tiến lại gần nàng.
Theo nghi lễ, các thầy tế sẽ cắt đứt kinh mạch tứ chi của Tây Lăng Hành, để máu nàng chảy theo rãnh trên đài tế xuống đất, gọi là Úy địa, sau cùng móc tim nàng ra dâng cho trời, gọi là Tế thiên, thông qua Tế thiên Úy địa mà đổi lấy nguyện vọng của mình.
Cổ tay cổ chân nàng bị dao cắt, nhưng vì cắt rất nhanh nên chẳng hề thấy đau.
Linh lực cũng cuồn cuộn chảy ra theo dòng máu. Tây Lăng Hành cảm nhận rõ ràng cái chết đang đến rất gần, nàng vừa gắng gượng vùng vẫy lần cuối trong kinh hoàng, vừa nảy sinh cảm giác hoang đường, lẽ nào nàng lại chết trong tay mấy thầy tế tầm thường này của Nhân tộc?
Máu tươi nhuốm đỏ đài tế, Tây Lăng Hành cũng chẳng còn sức vùng vẫy nữa, đành buông xuôi, dùng chút sinh lực cuối cùng quyến luyến ngước nhìn bầy không xanh biếc trên đầu, cha, mẹ, ca ca… gã vô lại mặc áo đỏ Xi Vưu cũng hiện ra trước mặt, nàng không khỏi cười khổ, tiểu tử thối, ta đã nói không hẹn lần sau kia mà!
Thầy tế cắm chủy thủ vào ngực Tây Lăng Hành khiến toàn thân nàng co rút lại, ánh mắt mệt mỏi ngước nhìn trời, đồng tử giãn ra trong đau khổ, bầu trời xanh biếc tan trong mắt nàng, biến thành vô số ánh sao băng muôn màu sắc, ý thức của nàng cũng tan tác theo những vì sao băng đó, bay về phía màn đêm.
Nhưng đúng lúc nàng sắp bị cuốn vào màn đêm vĩnh cửu, một đôi tay rắn rỏi ấm áp chợt bế bổng thân thể nàng lên.
Hơi thở như sương mai buổi sớm, tiếng nói như phượng gáy ngọc khua, “A Hành, xin lỗi nàng, ta tới trễ!”
Lại nghe chiến sĩ Thần tộc cao giọng xin lệnh, “Điện hạ, giết hết đám loạn dân này ư?”
“Bọn họ chỉ vì sự sinh tồn của tộc nhân, vốn không có tội, thả họ về làng đi.” Giọng điệu nam tử hàm chứa nỗi xót thương.
Y vừa dùng linh lực phong bế linh thức của nàng lại, vừa ghé tai nói nhỏ: “A Hành, ta là Cao Tân Thiếu Hạo.”
Thiếu Hạo, là Thiếu Hạo mà nàng tâm tâm niệm niệm mong gặp mặt… Tây Lăng Hành muốn gắng gượng mở mắt nhìn, nhưng ý thức đã tan vào bóng tối.
Chạng vạng tối, Xi Vưu một thân hồng y giẫm trên lưng đại bàng từ trời đáp xuống.
Dưới bóng tịch dương đỏ như máu, đài tế cổ kính từng thấm đẫm biết bao máu tươi càng đượm vẻ trang nghiêm.
Linh lực mạnh mẽ tản mạn trong không khí như tuyên cáo tin dữ của kẻ sở hữu linh lực này.
Xi Vưu lại gần đài tế, thoải mái nằm phục xuống vũng máu còn tươi, nhắm mắt lại, cố thu thập khí tức của Tây Lăng Hành vương trên vũng máu rồi khuếch đại linh lực bản thân thông qua cây cỏ và mặt đất, để tìm kiếm dấu tích về sinh mạng nàng.
Từ lúc chạng vạng tới khi tối om, gắn dốc hết toàn bộ linh lực, rà qua quét lại rất nhiều lần cũng chẳng thấy chút khí tức nào của nàng.
Nàng chết thật rồi!
Thật chẳng ngờ đùa mà hóa thật, hai người bọn họ đã không còn ngày gặp lại!
Hắn dịu dàng vỗ nhẹ lên đài tế như vỗ về tình nhân, mặc cho máu nhuộm đỏ ngón tay, gò má, lạnh lùng giễu cợt: “Sớm biết thế này, thà cứ để cô chết dưới tay Chúc Dung còn hơn.”
Xi Vưu quay mình nhìn vầng trăng tròn vành vạnh treo trên đầu ngọn cây, nhớ lại lần đầu gặp Tây Lăng Hành cũng là một đêm trăng tròn thế này. Đột nhiên hắn thấy mỏi mệt vô chừng, mấy trăm năm nay, hắn chưa từng mỏi mệt đến nhường này, thậm chí còn có phần chán ghét thế nhân.
Hắn nhắm mắt lại thiếp đi giữa vũng máu của nàng.
Nửa đêm, Xi Vưu bỗng tỉnh dậy, mũi đầy mùi máu tanh tanh ngòn ngọt.
Hắn đan hai tay vào nhau gối đầu lên, nằm ngửa giữa đài tế ngắm nhìn vầng trăng hiu quạnh mà sáng tỏ, bỗng thấy lẻ loi vô hạn, tại sao ông trời còn để hắn gặp lại nàng ở ngoại vi Bác Phụ quốc chứ?
Hắn nhắm mắt thì thầm: “Tây Lăng Hành, sớm biết thế này thà không gặp lại!”
Linh lực theo máu nàng chạy ra cuồn cuộn thấm vào lòng đất, khiến cây cối trong làng tăng trưởng vùn vụt, trùm lên đường cái, vây lấy tường nhà, phong kín cửa sổ. Tới khi thức giấc, đám dân làng kinh hoàng nhận ra nhà nào nhà nấy đều xanh mướt một màu cây cỏ, hơn nữa chúng vẫn không ngừng sinh sôi, nhìn thì mềm mại mà chèn vỡ tủ, vặn gãy ghế, quấn lấy bất kể nam phụ lão ấu.
Tiếng kêu thảm thiết từ trong núi liên tục vẳng ra, vô số chim muông cảm nhận được nỗi kinh hoàng liền xao xác bay đi cả, thôn làng tĩnh mịch dường như đã biến thành một vùng đất chết. Riêng mình Xi Vưu vẫn gối đầu lên chỗ Tây Lăng Hành từng gối, uể oải cười ngước mặt nhìn trời.
Tiếng kêu thảm từ từ tắt lịm, sơn cốc khôi phục lại vẻ tĩnh lặng, cả thôn làng đều đã biến mất, chỉ còn đám cây cối xanh um ken dày rậm rạp.
Hắn nhảy lên lưng đại bàng, đại bàng vỗ cánh bay lên, thoáng chốc đã biến mất giữa bầu không.
Dưới ánh trăng, đàn tế cũng như bốn bề quanh đó đều bị đám cây cối bao phủ dày đặc, nhìn từ trên xuống trông như một nấm mồ vĩ đại xanh mướt.
[1] Trích trong bài từ theo điệu Giang thành tử của Tô Thức (1036-1101), nhan đề Nghe đàn tranh trên hồ, cùng Trương Tiên Đồng làm thơ. (ND)
Dưới một trời hoa tuyết tả tơi, hai người họ sánh vai cùng ngồi trên vách đá. Xi Vưu ngẩng đầu nhìn ánh trăng vằng vặc, nghe lòng mình êm đềm vui vẻ, tựa như được trở về miền rừng núi mênh mông ấy, tự do tự tại, chẳng còn cô đơn nữa.
Phía Tây đại hoang có một ngọn núi tuyệt đẹp, tên gọi Ngọc sơn[2]. Ngọc sơn là thánh địa thời thượng cổ, linh khí vô cùng đặc biệt, bất kể thần binh lợi khí nào chỉ cần tiến vào Ngọc sơn sẽ mất hết pháp lực, đúng là chốn đào viên ngoài cõi thế, vĩnh viễn không có giao tranh. Tất cả nữ tử cai quản Ngọc sơn đều phải tuân theo cổ huấn, không dính líu hồng trần, tránh xa phân tranh. Qua bao cuộc chiến tranh của Thần tộc, ngọn Ngọc sơn nằm ngoài cõi thế đã chở che cho không ít thần thánh cùng yêu tinh, ngay hai Thần tộc thượng cổ là Thần Nông và Cao Tân đều từng nhận ân huệ của Ngọc sơn, bởi thế, địa vị của Ngọc sơn ở đại hoang vô cùng tôn quý, đến Tam Đế cũng phải nhân nhượng ba phần.
[2] Theo Sơn Hải kinh, phần Tây Sơn kinh: “Đi về phía Tây ba trăm năm mươi dặm có ngọn núi tên gọi Ngọc sơn, là nơi ở của Tây Vương Mẫu.” Quách Phác chú thích: “Trên núi có nhiều ngọc thạch, nên gọi Ngọc sơn.”
Nữ tử cai quản Ngọc sơn được tôn xưng là Vương Mẫu, vì Ngọc sơn ở phía Tây nên người đời thường gọi là Tây Vương Mẫu, cứ ba mươi năm Vương Mẫu lại bày tiệc Bàn Đào một lần, mời anh hùng thiên hạ tụ họp về. Mấy ngày nay lại là tiệc Bàn Đào ba mươi năm mới có một lần, khách khứa từ bát hoang lục hợp tới dự tiệc, trên Ngọc sơn người đến kẻ đi cứ nườm nượp.
Xi Vưu mình khoác hồng bào, rảo bước từ phía Dao trì tiến lại, vẻ mặt lãnh đạm, ánh mắt sắc lạnh.
Bên bờ Dao trì trồng rất nhiều đào, hoa nở ngàn năm không tàn, trên bờ sắc hoa lộng lẫy, dưới nước sóng biếc dập dờn, hoa rọi nước, nước chiếu hoa, trên bờ dưới nước, từng khóm từng cụm, soi rọi lẫn nhau, lung linh rực rỡ.
Một cơn gió thổi, cánh hoa lả tả rụng xuống như mưa, phớt qua chân mày, gò má, bờ vai của Xi Vưu, hắn bước chậm lại, nhìn cảnh tượng hoa bay ngập trời, ánh mắt chợt trở nên bàng hoàng ngơ ngẩn, thấp thoáng vẻ bi thương.
Hắn dõi mắt nhìn theo những cánh hoa rơi nương chiều gió, trông về phía xa xăm – sóng biếc lăn tăn, khói sóng mịt mờ, mười dặm rừng đào, chín khúc hành lang, nữ tử áo xanh đứng dựa lan can trong tòa nhà thủy tạ đỏ thắm, tay cầm một cành đào, cúi đầu dứt nhị hoa ném xuống Dao trì trêu đùa bầy cá ngũ sắc.
Tim Xi Vưu bỗng đập rộn lên, hắn lập tức sải bước tiến lại, vừa đi vừa nhìn nữ tử áo xanh không rời mắt, nhưng bóng hoa trùng trùng cách trở, dáng người cứ thoắt ẩn thoắt hiện, không sao nhìn rõ, khi hắn chạy tới thủy tạ thì đã chẳng thấy người kia đâu nữa.
Xi Vưu cuống cuồng nhìn quanh tìm kiếm, nghe tiếng cười lanh lảnh từ rừng đào vọng ra, hắn liền chạy như bay đến, thấy một đám thiếu nữ đang nô đùa, trong đó có một nàng mặc áo xanh, hắn cất tiếng gọi “A Hành” đồng thời giơ tay toan túm lấy nàng, thiếu nữ bèn tươi cười ngoảnh đầu.
Cánh tay Xi Vưu khựng lại giữa chừng, không phải nàng!
Dáng người bên hàng hiên sóng biếc phảng phất giống A Hành, trong lúc nhất thời ngơ ngẩn hắn lại lầm tưởng đó là nàng, nhưng nàng lìa trần đã hai năm, thoáng động lòng đó chỉ là ảo giác dưới bóng hoa trong buổi chiều tà mà thôi.
Xi Vưu thất vọng quay người bỏ đi, hoa đào bên Dao trì được mặt trời chiếu rọi rực lên như lửa, nhưng trong mắt hắn, hương sắc ngập trời thảy đều lợt lạt, toát lên vẻ tịch liêu khôn tả.
Hai nữ tử sánh vai nhau đi giữa rừng đào, nhìn bề ngoài như đồng trang lứa, nhưng thực tế vai vế lại khác hẳn nhau. Một người là Vân Tang, Đại vương cơ Thần Nông quốc, người kia là Ngọc sơn Vương Mẫu.
Nghe đồn trên Ngọc sơn có vô số bảo bối, Vân Tang bèn tò mò hỏi Vương Mẫu xem Ngọc sơn rốt cuộc cất giấu những thần binh bảo khí gì.
Vương Mẫu chẳng hề giấu giếm Vân Tang, liệt kê tường tận từng thứ một.
Vân Tang xuất thân từ Thần tộc thượng cổ, sẵn có gia học uyên nguyên, cũng từng nghe nói tới một vài thần khí mà Vương Mẫu kể ra, nhưng nàng chưa hề biết món binh khí đứng đầu các thần binh lại là một cây cung không có mũi tên.
Vân Tang hỏi Vương Mẫu: “Chỉ nghe nói Bàn Cổ đại đế có một cây búa Bàn Cổ xẻ được đất trời, chưa từng nghe tới cung Bàn Cổ, lẽ nào trên đời này không có mũi tên nào lắp được vào cung ư? Đã không có tên thì cung còn dùng làm gì nữa?”
Vương Mẫu tính tình nghiêm túc, nói năng trang trọng nhưng đối đáp với Vân Tang lại vô cùng hòa nhã, dịu dàng: “Cây cung này không phải dùng để ghết chóc, mà dùng để truy tìm. Theo những gì Thái tổ sư phụ ghi chép lại thì sau khi Bàn Cổ đại đế xẻ đôi trời đất, vì bận rộn cai quản hai cõi nên đánh mất người con gái mình yêu thương nhất, để được gặp lại nàng, Bàn Cổ đại đế đã dốc hết tâm tư chế tạo ra cây cung này. Nghe nói nếu giương cung hết cỡ thì có thể gặp lại người thương lần nữa, bất kể xa cách bao nhiêu, bất kể đó là thần hay ma, còn sống hay đã chết.”
“Làm sao gặp lại được? Lẽ nào cây cung này có thể vạch đường cho đi tìm ư?”
“Ta chẳng biết nữa. Tương truyền năm xưa sau khi Phục Hy đại đế quy tiên, Nữ Oa đại đế quyến luyến nhớ nhung từng lên Ngọc sơn mượn cung, nhưng dốc hết thần lực, giương cung hết cỡ cũng chẳng cảm ứng được với Phục Hy đại đế, đừng nói là gặp lại nhau.”
Vân Tang tuy chững chạc nhưng vẫn mang tâm tính thiếu nữ, vừa nghe đã nảy sinh hứng thú, bèn than thở: “Thì ra Nữ Oa đại đế cũng bối rối bất lực trước tương tư, chẳng khác nào nữ tử bình thường. Có điều Bàn Cổ đại đế thần lực vô biên, chẳng gì không biết, sao lại không tìm thấy nữ tử mình yêu chứ?”
“Không biết nữa.”
“Sau khi đúc nên cây cung, Bàn Cổ đại đế có gặp lại người con gái đó không?”
Vương Mẫu cười đáp: “Ta làm sao biết được. Con bé nhà ngươi đừng cho là thật! Thái tổ sư phụ chỉ ghi chép lại theo lời đồn đại, rốt cuộc là thật hay giả chẳng ai hay, có lẽ chỉ là một câu chuyện xuyên tạc đấy thôi.”
Xi Vưu nghe nói đến đây liền rẽ cây tiến lại, “Ta muốn cây cung Bàn Cổ đó.”
Thấy hắn ở gần đó mà mình chẳng hề nhận ra, Vương Mẫu thầm kinh hoảng trong lòng, nhưng vẫn giữ giọng ôn tồn bảo: “Đó là thần khí đứng đầu trong những số những thứ Ngọc sơn cất giữ, không thể giao cho ngươi được.”
Không để Xi Vưu kịp mở miệng, Vân Tang đã cướp lời: “Vương Mẫu, lần này hội Bàn Đào đem bảo bối gì ra làm phần thưởng đây?” Lại quay sang nói với Xi Vưu: “Nếu ngươi muốn có thần khí thì tới chừng đó đến giành bảo bối này đi.”
“Chắc chắn không phải cung Bàn Cổ, nhưng cũng là thần khí hiếm có khó tìm.” Vương Mẫu chuẩn bị rời bước, “Vương cơ Hiên Viên lần đầu tiên đến Ngọc sơn, ta phải đi gặp vương cơ, các ngươi cứ tự nhiên nhé.”
Vân Tang thuở nhỏ từng theo Luy Tổ, vương hậu Hiên Viên học nuôi tằm quay sa, sớm chiều bầu bạn với vương cơ Hiên Viên Bạt suốt mười năm, tình cảm rất thân thiết, bèn mừng rỡ nói: “Thì ra Bạt muội muội cũng tới rồi, bao năm nay chúng ta chưa gặp nhau, đợi chút nữa phải đi tìm cô ấy hàn huyên mới được.”
Vân Tang thấy Vương Mẫu đã đi xa, liền quay sang bảo Xi Vưu, nửa như cảnh cáo lại nửa như cầu khẩn: “Ta biết ngươi vẫn coi trời bằng vung, tùy tiện phóng túng nhưng nơi này không phải Thần Nông sơn, ngươi nhất định không được làm loạn, nếu xảy ra chuyện thì chẳng ai cứu nổi ngươi đâu.”
“Biết rồi.” Xi Vưu cười cười, đưa mắt quan sát bố cục phương hướng trong rừng đào.
Vân Tang tâm tư thông tuệ, học rộng biết nhiều, hành sự quả quyết, đến Chúc Dung cũng phải kiêng nể ba phần, vậy mà chẳng cách nào trị được Xi Vưu, thấy hắn cười cười, lòng nàng càng thêm thấp thỏm, đành thầm mong sao mình chỉ lo hão mà thôi, “Phụ vương cho ta đem ngươi đến dự tiệc Bàn Đào là muốn ngươi làm quen với tình hình của đại hoang chứ đâu phải để ngươi làm loạn. Trên đại hoang này có mấy nữ tử không thể đắc tội, người thứ nhất chính là Vương Mẫu, ngươi nhất định không được…”
Xi Vưu cắt lời nàng: “Thế còn thứ hai?”
“Vương cơ tộc Hiên Viên, Hiên Viên Bạt.”
Xi Vưu đùa: “Chứ không phải cô à?”
Vân Tang lườm hắn: “Hoàng đế Hiên Viên thê thiếp hàng đàn, trong đó có bốn phi tử được sách phong chính thức, bốn người này sinh được tổng cộng chín người con nhưng chỉ có một vương cơ Hiên Viên Bạt, hơn nữa còn là do chính phi Luy Tổ sinh ra, anh trai nàng cùng mẹ nàng chính là Hiên Viên Thanh Dương, kẻ có khả năng kế thừa đế vị Hiên Viên cao nhất. Từ nhỏ Hiên Viên Bạt đã đính hôn với tộc Cao Tân, vị hôn phu chính là Cao Tân Thiếu Hạo, cũng là kẻ rất có khả năng sẽ kế thừa ngôi vị Tuấn Đế.”
Xi Vưu nhìn quanh nhìn quất khắp rừng đào, hờ hững nói: “Vậy ả Hiên Viên Bạt không trêu vào được rồi.”
Nguồn ebook: http://www.luv-ebook.com
Vân Tang mỉm cười đáp: “Có điều tính tình Bạt muội muội rất tốt. Vương Mẫu lại…”
Vừa thấy nàng định chuyển chủ đề khuyên mình đừng quậy phá, Xi Vưu liền quay ngoắt người bỏ đi, Vân Tang cau mày, đoạn lắc đầu cười gượng, cứ theo tính tình hắn thì có thể nhẫn nại lắng nghe đến giờ đã là khó lắm rồi.
Vân Tang xem thời gian, đoán chừng bên Hiên Viên Bạt đã yên tĩnh, lại hỏi han biết được nàng ở Ao Đột quán, bèn theo hướng thị nữ chỉ, một mình tới thăm hỏi.
Vân Tang học rộng hiểu nhiều, từng trông thấy không ít cảnh đẹp kỳ thú, biết rằng tên gọi phải tương ứng với cảnh sắc mới coi là tên hay. Lấy hai chữ “ao đột”[3] đặt tên quán quả là độc đáo mới lạ, có điều thật không tưởng tượng nổi cảnh trí phải ra sao mới xứng được với tên đó.
[3] Hai chữ “ao đột” có nghĩa là lồi lõm. (ND)
Dọc đường càng xa khỏi Dao trì cảnh sắc càng vắng vẻ, cây cối dần lộ vẻ hoang sơ, con đường mòn trải sỏi uốn lượn quanh co, dòng suối nhỏ róc rách lúc ẩn lúc hiện. Đi không bao lâu thì thấy đình đài lều gác, cầu nhỏ mái cong trên sườn núi xa xa. Bốn bề cũng trồng toàn đào nhưng khác với rừng bích đào mười dặm rực rỡ sắc hương bên bờ Dao trì, ở đây chỉ toàn bạch đào ngàn cánh, lại trồng rất thưa, từng cây từng cây nở hoa trắng muốt, thanh khiết âm thầm, tựa như người đẹp ẩn cư nơi vắng vẻ, hoặc âm thầm nở bên hiên dưới cửa, hoặc chỉ thấy hương chẳng thấy hoa, nhìn quanh tìm kiếm mới thấy một cành hoa e thẹn ló ra dưới mái nhà, cách một bức tường đá.
Có lẽ để khỏi phá vỡ không khí thanh tĩnh u nhã nên nơi đây cũng vắng bóng thị nữ, rất hợp ý Vân Tang, dọc đường tới đây nàng chẳng gặp ả thị tỳ nào, có điều vẫn chưa thấy ý vị của hai chữ “ao đột” đâu cả, nhưng bậc kiến tạo nơi này tâm tư linh mẫn, ắt hẳn hai từ đó chẳng phải gọi suông.
Men theo đường hoa, Vân Tang chỉ nghe róc rách mà chẳng thấy dòng nước nào cả, phải ngoặt qua vách núi mới trông thấy xa xa có một mặt hồ thăm thẳm, nước hồ xanh biếc như ngọc, hòn đá bên hồ còn khắc ba chữ Ao Tinh trì, nét chữ cổ phác. Vân Tang mừng thầm bèn rảo bước lại đứng bên hồ, thấy từng đợt gió mát phả vào mặt rất dễ chịu, vô tình nàng cúi đầu ngắm bóng mình dưới nước, bỗng giật nảy người, trên mặt hồ có đến mấy Vân Tang, có kẻ còi gí như người lùn, kẻ lại cao lớn như người khổng lồ, kẻ cổ ngẳng bụng to như bị úng nước, kẻ đầu to tứ chi nghều ngào như quả bí đao trên sào trúc… kẻ nào kẻ nấy đều rất kỳ quái tức cười.
Nhận ra sự kỳ diệu bên trong, Vân Tang xém nữa đã vỗ tay khen hay. Té ra nơi này chẳng những nước biếc như ngọc mà còn là ngọc biếc như nước, mặt hồ xanh biếc trước mặt thoạt trông thì lăn tăn sóng gợn, hoàn mỹ vẹn toàn, thực tế bên dưới ẩn giấu vô số bích ngọc, bậc kiến tạo đã lợi dụng độ cong của bích ngọc khiến nước hồ chỗ nông chỗ sâu, tạo nên vô số nơi gồ ghề lồi lõm, mặt hồ như một tấm gương bằng ngọc phản chiếu bóng người, cũng hình thành nên vô số thấu kính lồi lõm, thấu kính lõm sẽ thu nhỏ hình dáng, thấu kính lớn thì phóng đại lên.
Thấy bốn bề vắng vẻ, Vân Tang liền nổi tính trẻ thơ, đi qua đi lại bên hồ, vung vẩy chân tay, nhìn bóng mình biến ảo dưới mặt nước, khi thành kẻ béo, lúc thành người gầy, nàng phá lên cười ngặt nghẽo. Vân Tang cười, những chiếc bóng muôn hình ấy cũng cười theo, thấy vậy nàng cười như nắc nẻ, cười đến chảy cả nước mắt.
Một nữ tử áo xanh ẩn mình trong bóng tối, lặng lẽ quan sát Vân Tang.
Lúc vừa lên núi chơi, thiếu nữ áo xanh đã nhác thấy Vân Tang nhưng nàng chợt nảy ý trêu đùa, muốn thử xem liệu nàng Vân Tang đoan trang từ tốn lần đầu nhìn thấy hồ nước quái dị kia có hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như mình chăng, bèn nấp vào góc khuất, định đợi khi Vân Tang mải cười sơ ý sẽ nhảy ra hù cho nàng ta chết khiếp.
Có điều, tận mắt thấy Vân Tang cười ngặt nghẽo, đột nhiên thiếu nữ áo xanh chẳng muốn quấy rầy nàng nữa. Mẫu hậu Vân Tang mất sớm, tiểu muội Nữ Oa[4] rong chơi Đông Hải không may chết đuối, nhị muội Dao Cơ vừa sinh ra là đau ốm liên miên, từ nhỏ trong lòng Vân Tang đã ngổn ngang trăm mối, nàng hầu như chưa bao giờ được thoải mái cười không cần ý tứ.
[4] Nữ Oa đề cập tới ở đây không phải Nữ Oa đội đá vá trời mà là con gái út của Viêm Đế trong thần thoại, về sau hóa thành chim Tinh Vệ ngậm đá lấp biển Đông. (ND)
Bỗng Vân Tang im bặt tiếng cười, sầm mặt quát: “Ai đó? Ra đi!”
Thiếu nữ áo xanh giật mình, đang định ngoan ngoãn bước ra nhận sai xin lỗi, chợt thấy một nam tử dáng dấp phong nhã, diện mạo tuấn tú, bước trong hương hoa, rẽ cây từ rừng đào ung dung tiến lại, khóe môi ánh mắt đều thấp thoáng nét cười, “Xin vương cơ tha tội, tôi thấy vương cơ hoa chân múa tay, cười ngả nghiêng như trẻ nhỏ nên không dám quấy rầy.”
Đôi má Vân Tang thoáng ửng hồng nhưng vẻ mặt càng lạnh lùng hơn: “Đã biết thân phận ta mà còn to gan dám rình lén ư?”
Nàng má phấn ngậm hờn, sầu vương khóe mắt, một thân áo trắng đứng cười bên hồ, sau lưng là mấy gốc bạch đào ngàn cánh mây thua tuyết nhường, dáng vẻ còn u uẩn thanh tao hơn cả hoa đào.
Nam tử nhanh nhẹn thi lễ, thành khẩn nói: “Không phải tại hạ dám càn rỡ, có điều năm xưa hao tâm tổn trí suốt ba năm dựng nên quán Ao Đột này chỉ mong rằng kẻ nào trông thấy mặt nước xanh cũng có thể cười sảng khoái, quên hết ưu phiền trên đời. Hôm nay thấy tâm nguyện đạt thành nên có phần thất lễ, xin vương cơ thứ tội.”
Vâng Tang sững người, hai chữ “ao đột” hàm ý sâu xa kỳ diệu lại do bàn tay kẻ này tạo ra ư? Trong lúc ngỡ ngàng, cơn giận của nàng chợt tiêu tan cả.
Thấy bóng người dưới hồ có gầy có béo có cao có thấp, Vân Tang hạ giọng nói: “Những hình ảnh lạ lùng này thoạt trông có vẻ không giống chúng ta nhưng lại đều là chúng ta, không có phục sức hoa kệ, dạo mạo đẹp xấu, tạm thời quên đi tên tuổi và thân phận, chỉ tự mình vì mình mà cười sảng khoái một phen mới chỉ là nửa tâm nguyện, để cảm tạ ngươi đã cho ta một trận cười sảng khoái, ta sẽ tác thành nửa tâm nguyện nữa cho ngươi.”
Nam tử hỏi: “Nửa tâm nguyện nữa ư?”
Vân Tang khẽ cười, chỉ bóng mình và bóng nam tử in dưới hồ, “Hình ảnh dưới hồ này chẳng bị trói buộc bởi những phục sức bề ngoài, ta chỉ là ta, ngươi chỉ là ngươi, vậy nên ngươi chẳng cần tạ lỗi, ta cũng chẳng có quyền tha tội.”
Nam tử chợt thấy tim đập rộn ràng, ánh mắt thoáng mừng rỡ bất ngờ nhưng vẫn giữ vẻ thản nhiên, cười mỉm.
Vân Tang quan sát mặt hồ rồi nói, “Nơi này phối hợp cả gồ và trũng, tuy tinh diệu nhưng vẫn nghiêng về trũng hơn, nếu chỉ dựa vào đó mà đặt tên Ao Đột quán e không khỏi gượng ép, hẳn ngươi cũng chẳng thèm làm vậy. Nếu mặt hồ này là trũng, thiết nghĩ phải có ngọn núi để thành gồ, có hồ sâu núi cao, non non nước nước mới xứng gọi là Ao Đột quán.” Nói rồi Vân Tang men theo Ao Tinh trì, đi về phía vách núi cheo leo bên kia hồ nước.
Nam tử vừa mừng rỡ vừa ngạc nhiên, lặng thinh không nói, chỉ chăm chú nhìn theo Vân Tang.
Vân Tang nhìn quanh tìm đường, cây cối nơi đây bỗng nhiên tươi tốt um tùm, nàng kiếm một hồi mới thấy con đường mòn quanh co, chỉ đủ một người đi, trên vách núi khắc ba chữ “Đột Bích sơn”. “Ao Tinh trì, Đột Bích sơn” Vân Tang vừa nhẩm trong lòng, vừa men theo thềm đá leo lên đỉnh núi.
Cả ngọn núi đều làm từ ngọc thạch, nhô hẳn lên cao, mặt quay về phía hồ lồi lõm gồ ghề, nơi lồi ra thì sắc ngọc nhàn nhạt, chỗ lõm vào thì sắc ngọc đậm đà, bởi ánh sách phản chiếu đậm nhạt khác nhau, vừa khéo trung hòa bớt phần nào sự lồi lõm dưới lòng hồ, lại thêm nhìn từ trên xuống, không trông rõ mặt hồ lồi lõm, chỉ thấy mặt nước phẳng lặng như gương, in bóng người một nam một nữ sánh vai đứng bên nhau.
Vân Tang nghĩ một lát mới hiểu ra, nhất định trên sườn núi có cơ quan, khéo léo lợi dụng tính khúc xạ của ngọc thạch nên rõ ràng nàng và nam tử kia kẻ ở trên người ở dưới, mỗi người một bên bờ hồ, nhưng bóng hình lại như sánh vai bên nhau, tựa kề thân thiết.
Thoạt đầu nàng còn tán thưởng nam tử học vấn uyên bác, biết phối hợp các loại kỹ năng, nhưng khi thấy bóng mình cùng y “tựa kề” dưới hồ, dù biết y đứng dưới chẳng thể trông thấy, nàng cũng không khỏi đỏ bừng mặt, tức tối lườm y, lòng thầm nhủ: y thiết kế như vậy là còn chừa chỗ bỡn cợt nữa! Nàng lập tức leo xuống, không thèm “tựa kề” cùng y thêm một giây một phút nào nữa. Trong lúc vội vội vàng vàng, nàng chẳng kịp trông thấy mấy hàng chữ phản chiếu trên mặt hồ lấp loáng: trăng nước bóng gương, vô tâm đi đến.
Vân Tang quay lại bên hồ, giữ nguyên vẻ mặt lạnh lùng, giễu cợt: “Tuy tâm tư tinh tế, tiếc rằng đã đặt nhầm chỗ mất rồi.”
Nam tử vẫn thản nhiên, dâng lên Vân Tang một chiếc hộp ngọc, hờ hững nói: “Tại hạ phụng lệnh điện hạ tới dâng vật này lên vương cơ, nay vật đã dâng rồi, tại hạ xin cáo lui.” Nói rồi liền nghênh ngang bỏ đi, thái độ cực kỳ vô lễ, khác hẳn kẻ khiêm tốn ôn hòa, cười nói tự nhiên khi trước.
Vân Tang tức nghẹn cả họng, hậm hực nhìn theo bóng y nhưng không sao nói rõ được mình tức giận điều gì. Một lúc lâu sau nàng cúi đầu, trông thấy dấu ấn Huyền điều – dấu ấn của vương thất Cao Tân – in trên hộp ngọc mới sực nhận ra: “Này, ngươi nhận lộn người rồi, ta không phải vương cơ Hiên Viên mà là vương cơ Thần Nông kia.”
Thiếu nữ áo xanh bấy giờ mới từ sơn động nhảy ra, vỗ tay cười nói, “Hay cho Ao Đột quán, thiết kế đã khéo, giải thích còn khéo hơn, muội ở bên hồ này ngắm nhìn suốt nửa ngày mà không nhận ra cái gì là nước thành chỗ trũng, non thành chỗ gồ.”
Chẳng hiểu sao trong lòng Vân Tang bỗng vừa thẹn vừa giận, cảm giác lạ lùng khó tả chưa từng thấy, nàng tức tối quăng hộp ngọc cho thiếu nữ áo xanh, chế giễu: “Hiên Viên vương cơ, chú rể của muội ngàn dặm xa xôi sai thuộc hạ mang quà tới tặng muội này, hèn nào muội cười tươi thế!”
Hiên Viên Bạt mở hộp ra xem, đỏ mặt nói: “Đâu phải quà cáp gì? Chỉ là mấy viên thuốc thôi mà.” Nàng ngẩng đầu lên, thấy Vân Tang đang đứng ngẩn người ra đó, gọi mấy tiếng cũng không nghe.
Hiên Viên Bạt vội lay lay Vân Tang: “Tỷ tỷ, tỷ sao thế?”
Vân Tang đáp: “Vị công tử vừa rồi là do Thiếu Hạo phái tới đưa đồ cho muội ư?”
“Chắc là thế.”
“Y thấy ta phục sức hoa lệ lại đứng trong Ao Đột quán, gọi vương cơ ta cũng đáp, té ra y tưởng nhầm ta là muội.”
“Phải đó, chẳng phải tỷ đã biết rồi sao?” Hiên Viên Bạt ngơ ngác chẳng hiểu rốt cuộc Vân Tang định nói gì.
“Vậy y đương nhiên cũng nghĩ rằng ta là vị hôn thê của Thiếu Hạo, nghĩ rằng ta là một nữ tử đã đính hôn.”
“Ừm.” Hiên Viên Bạt gật đầu, vẫn chưa hiểu điều Vân Tang muốn nói.
Vân Tang cười rạng rỡ, ánh mắt lấp lánh niềm vui.
“Tỷ tỷ, sao tỷ cứ lúc vui, lúc giận, lúc lại thẫn thờ ra thế? Chẳng giống khi xưa chút nào.”
Vân Tang chỉ cười làm thinh, hồi lâu mới nói: “Còn muội vẫn y như hồi nhỏ. A? Thuốc à? Sao Thiếu Hạo lại phái người tới đưa thuốc cho muội? Muội bị bệnh ư? Hèn chi sắc mặt muội xanh xao quá.”
“Ôi, tỷ đừng nhắc đến chuyện ấy nữa, nói ra chỉ tổ làm trò cười thôi! Lúc muội du ngoạn nhân gian đã bị thương, được Thiếu Hạo cứu đó!”
Vân Tang véo mũi Hiên Viên Bạt, “Chẳng phải vừa khéo ư, anh hùng cứu mỹ nhân, mỹ nhân lấy thân đền đáp!”
Hiên Viên Bạt bĩu môi, “Khéo cái gì mà khéo? Muội có biết y cao hay thấp, béo hay gầy đâu. Lúc đó loạn dân ở Cao Tân vừa dẹp xong, Đại ca bảo Thiếu Hạo còn chuyện quan trọng phải lo liệu, chẳng đợi muội tỉnh lại y đã đi rồi, y trông thấy muội chứ muội nào đã thấy y, đúng là muội bị thiệt mà!”
Vân Tang cười: “Đừng lo, tuy chưa gặp Thiếu Hạo nhưng tỷ dám chắc y nhất định không làm muội thất vọng đâu.”
“Hừm, tỷ cũng chưa thấy, làm sao khẳng định được gì chứ?”
“Muội thấy gã vừa rồi thế nào?”
“Lời nói cử chỉ của y khiến muội nhớ tới Tri Vị bá bá.” Tri Vị phò tá Hoàng đế dựng nước, được ca tụng là đế sư, theo lời Hiên Viên Bạt có thể thấy nàng cũng khen ngợi nam tử vừa rồi.
Vân Tang tiếp: “Chim khôn chọn cành mà đậu, kẻ có tâm tư tinh tế nhường ấy đã chọn Thiếu Hạo trong hơn hai mươi vương tử Cao Tân, bởi thế muội cứ yên tâm đi.” Nàng thoáng chần chừ rồi ngập ngừng hỏi, “Muội có dò la xem y là ai được không?”
“Muội nhờ Tứ ca đi hỏi là biết thôi, đừng nói tới tài hoa, chỉ cần xét dung mạo, ở Cao Tân cũng chẳng có mấy công tử tao nhã tuấn tú như thế đâu.”
Vân Tang đỏ bừng mặt lên, “Tỷ tỷ còn chút việc phải nhờ muội đây.”
“Gì thế tỷ?”
Vân Tang ghé tai Hiên Viên Bạt thì thầm, vẻ mặt Hiên Viên Bạt thoắt kinh ngạc, thoắt tươi cười, sau cùng gật đầu lia lịa, hai nữ tử ngồi bên hồ to nhỏ hơn một canh giờ, mãi tới khi mặt trời ngả về Tây, Vân Tang mới đi khỏi.
Màn đêm buông xuống, mây che mờ trăng, khe núi mịt mù sương phủ.
Những đóa hoa đào trong Bàn Đào viên như được phủ một lớp màn the, thoạt nhìn tưởng như cả đất trời đều hóa thành mây ráng khói hồng, mờ mờ ảo ảo.
Xi Vưu bay vút vào giữa vườn đào, rút một dải lụa hồng bịt hai mắt lại. Lúc ban ngày, hắn đã phát hiện ra Ngọc sơn và rừng đào là một trận pháp lớn, không muốn bị ảo ảnh mê hoặc thì đừng nhìn, chỉ có thể dùng tâm nhãn cảm nhận sự biến hóa kỳ diệu của linh khí mà thôi.
Hắn di chuyển trong rừng đào, hết đi lại dừng, lúc đi thẳng lúc đi vòng, lúc rẽ ngoặt, cuối cùng cũng phá được trận pháp trong đó, tiến vào địa cung của Ngọc sơn. Nhìn hắn phá trận pháp có vẻ dễ dàng nhưng thực ra một khi đã vào trận, chỉ cần sẩy chân một bước sẽ lập tức chuốc lấy cái chết, mấy vạn năm nay mới chỉ có mình hắn suôn sẻ vượt qua.
Cả tòa địa cung đều được dựng nên từ ngọc thạch, chẳng có viên minh châu nào mà vẫn lấp lánh sáng rực. Phòng ốc bên trong san sát, đường đi khúc khuỷu, cất giấu đủ thứ báu vật, không sao tìm nổi. Xi Vưu nghĩ cung Bàn Cổ là thần binh, hẳn sẽ đi trong kho Binh Khí, bèn định thần cảm nhận một lát rồi chạy thẳng về hướng tỏa ra sát khí dày đặc.
Men theo bậc thềm xuống dưới, dọc hai bên lối đi bày đủ loại thần binh lợi khí mà hết thảy thần tiên ngày mơ đêm tưởng nhưng hắn chẳng thèm liếc lấy một lần, chỉ dán mắt vào một vật đặt ở xa tít.
Cuối con đường là một bức tường tạc bằng bạch ngọc, trên tường treo một cây cung.
Thân cung đen nhánh, dọc thân khắc hoa văn đỏ rực đơn giản mà cổ phác, dường như cảm nhận được Xi Vưu có ý nhắm vào mình, cây cung chợt tỏa ánh sáng đỏ rực, kích thước lúc to lúc nhỏ, lúc to thì cao hơn cả người, lúc nhỏ thì chỉ chừng một tấc. Giờ đây, Xi Vưu mới hiểu tại sao Vương Mẫu lại nói cây cung này không có mũi tên nào lắp vào được – cây cung có biến đổi khi to khi nhỏ thì làm gì có mũi tên nào trên đời lắp vào nổi chứ?
Xi Vưu lặng lẽ quan sát nó một lát rồi vận hết linh lực, một tay kết thành trận pháp, một tay nhanh nhẹn tháo cung xuống. Chẳng hiểu hắn đụng phải cơ quan nào mà cả địa cung rung lên, từng khối từng khối Trảm Long thạch sắc lẹm từ trần rơi xuống, hắn vội vàng tránh né, khó khăn lắm mới tránh được thì Trảm Long thạch lại biến thành ngàn lưỡi kiếm lao về phía hắn khiến hắn phải vừa chạy vừa rút lá đào đã chuẩn bị từ trước ra. Lá đào cùng chung một huyết mạch với Ngọc sơn, có thể che giấu khí tức của hắn.
Xi Vưu khắp người thương tích, bộ dạng nhếch nhác, loạng choạng thoát khỏi địa cung. Thấy đám thị vệ đã đuổi đến nơi, hắn chẳng kịp thở, lập tức bỏ chạy ngay, nhưng đám truy binh phía sau càng lúc càng đông, từ bốn phương tám hướng ùn ùn đổ lại.
Chẳng nấp được vào đâu trong rừng đào, hắn đành chạy về hướng Dao trì.
Vầng trăng tròn vành vạnh treo giữa bầu không, dịu dàng soi chiếu Dao trì và rừng đào. Gió đêm hiu hiu, một mảnh hồ lăn lăn sóng biếc, mười dặm dài hoa rụng tả tơi.
Giữa lớp lớp hoa rơi, thiếu nữ áo xanh ngồi vắt vẻo trên lan can nhà thủy tạ, hai tay vén vạt váy, đôi chân trần đá hất nước lên nghịch ngợm. Từng chuỗi bọt nước bắn tung tóe, ánh trăng lấp lánh cùng sóng nước long lanh bập bềnh dưới gót ngà.
Trong khoảnh khắc, tất cả mọi âm thanh đều lặng phắc, trong mắt Xi Vưu chỉ còn thiếu nữ áo xanh dưới ánh trăng giữa rợp rợp bóng hoa, từng động tác của nàng đều trở nên thong thả rõ rệt lạ thường. Hắn ngỡ như mình nằm mộng, cứ vừa chạy và chăm chú nhìn nàng không chớp mắt, chỉ sợ hễ chớp mắt nàng sẽ tan đi mất.
Tiếng kêu réo vẳng lại phá tan bầu không khí tĩnh lặng về đêm ở Dao trì, thiếu nữ áo xanh nghe động liền mỉm cười ngoái đầu khiến Xi Vưu giật nảy mình, khựng bước.
Dưới ánh trăng bát ngát, khuôn mặt thiếu nữ hiện rõ nét, chính là Tây Lăng Hành mà hắn tìm kiếm lâu nay, còn tưởng rằng đã chết.
“Xi Vưu? Sao ngươi lại ở đây?” Tây Lăng Hành giật nảy mình sửng sốt, bộ dạng có phần đanh đá nhưng ánh mắt không giấu nổi mừng rỡ.
Xi Vưu ngẩn người ra một thoáng rồi chạy vụt tới trước mặt Tây Lăng Hành, nắm chặt lấy nàng từ trên xuống dưới thật kỹ mới dám khẳng định tất cả là sự thực, “Sao cô cũng lại ở đây?”
Tây Lăng Hành lờ đi không đáp, trỏ đám thị vệ trong rừng đào: “Bọn họ đang đuổi ngươi đấy à? Ngươi ăn trộm gì thế?”
Xi Vưu uể oải đáp: “Ta lấy một cây cung trong địa cung ở Ngọc sơn, nhưng giờ chẳng cần tới nữa, đợt lát nữa trả lại chúng là xong.”
Tây Lăng hành biến sắc, “Ngươi, ngươi, ngươi muốn chết à! Đây là Ngọc sơn thánh địa, dù Hoàng Đế, Viêm Đế, Tuấn Đế có đến cũng phải tuân theo quy củ ở đây!” Nàng cuống đến nỗi quay mòng mòng cả lên, trong khi Xi Vưu vẫn bình chân như vại, thản nhiên cười nhìn nàng luống cuống.
Thấy đám thị vệ càng lúc càng đến gần, Tây Lăng Hành bèn đá văng Xi Vưu xuống hồ, “Chạy mau! Ta đi cản truy binh! Mau chuồn xuống núi rồi ném ngay cây cung hỏng đó đi! Bất kể xảy ra chuyện gì cũng không được thừa nhận rằng ngươi đã vào địa cung Ngọc sơn trộm báu vật, hễ thừa nhận là chết đó!”
Xi Vưu vẫn nhơn nhơn ló đầu lên khỏi mặt nước, làm bộ căng thẳng nói: “Vợ yêu, nếu cô xui xẻo bị bắt, nhớ đừng khai ra ta đấy!”
Tây Lăng Hành bực bội quát: “Cút mau!”
Mắt thấy đám thị vệ ùn ùn kéo đến, Tây Lăng Hành vội liếc xuống hồ, không thấy Xi Vưu đâu nữa, nàng mới dám thở phào nhẹ nhõm, lờ mờ cảm thấy có gì đó không ổn nhưng đã bị cả đám thị vệ vây lấy, đành cố lằng nhằng câu giờ với họ.
Hôm sau, mọi thứ trên Ngọc sơn bề ngoài vẫn vậy, nhưng tất cả khách khứa đều nhận thấy sự khác lạ.
Vân Tang phái thị nữ đi nghe ngóng xem đã xảy ra chuyện gì, hồi lâu, thị nữ quay về bẩm báo: “Tối qua dưới địa cung Ngọc sơn mất một món thần khí.”
Vân Tang giận đến nỗi hai mắt tóe lửa, trừng trừng nhìn Xi Vưu, đang định phát tác thì ả thị nữ lại nói tiếp: “Nghe nói đã bắt được kẻ trộm rồi.”
Vân Tang nhẹ cả người, vội ngượng nghịu cười với Xi Vưu tỏ ý tạ lỗi rồi quay sang mắt thị nữ: “Lần sau phải nói cho liền mạch, không được ngưng giữa chừng như thế.”
Ả thị nữ gần đây mới được vào hầu hạ cạnh Vân Tang, chưa hiểu tính tình ngoài lạnh trong nóng của nàng, líu ríu đáp: “Dạ!”
Vân Tang hỏi: “Kẻ nào to gan dám mạo phạm Ngọc sơn thánh địa thế?”
“Sự việc nghiêm trọng quá, nô tỳ không dò la được, nghe tỷ tỷ hầu hạ Vương Mẫu nói Vương Mẫu đích thân thẩm vấn kẻ trộm suốt nửa đêm mà chẳng được kết quả gì, cũng chẳng tìm thấy tang vật, đành phải thả ra, còn cấm các thị nữ không được bàn tán nữa, có điều, có điều…” Thị nữ nói một lèo hết cả hơi, đỏ bừng mặt lên.
Vân Tang ngán ngẩm bảo: “Ngươi lấy hơi đã rồi hãy nói.”
Ả thị nữ bối rối luống cuống, suýt khóc òa lên, trong khi gã Xi Vưu đầu trò lại bật cười: “Có điều thế nào?”
Ả thị nữ hít vào một hơi, nhanh nhảu đáp: “Có điều Vương Mẫu nói lúc địa cung bị mất trộm chỉ có mình nàng ta ở đó nên bị tình nghi nhiều nhất, nếu không chứng minh được sự trong sạch của mình, nàng ta sẽ bị giam lỏng một trăm hai mươi năm.”
Xi Vưu đăm chiêu hỏi: “Phải giam lỏng một trăm hai mươi năm ư?”
Vân Tang vẫy tay ra hiệu cho thị nữ lui xuống rồi thản nhiên nói: “Vậy là nhẹ lắm rồi. Phạm tội trên Ngọc sơn, sợ nhất không phải là Vương Mẫu xử phạt, mà là Vương Mẫu không xử phạt lại giao kẻ trộm cho gia tộc y, bọn họ đương nhiên phải có lời lại với Ngọc sơn, còn phải đối mặt với miệng lưỡi thế gian, hình phạt chỉ có nặng chứ không có nhẹ.”
Xi Vưu đưa mắt chăm chú nhìn Dao trì trăm dặm, đào nở ngàn năm ngoài song cửa, làm thinh không nói.
Hoàng hôn buông, tiệc Bàn Đào bắt đầu, chỗ ngồi được đặt bên Dao trì, trong các đình đài lầu gác bày đầy những bàn những sập dài ngắn đan xen, thoạt nhìn có vẻ tùy tiện nhưng thực tế lại rất trật tự.
Hàng chủ trì gồm bốn vị trí, Vương Mẫu ngồi ghế chủ tọa, bên phải là vương tử Quý Ly của Cao Tân, bên trái là vương cơ Vân Tang của Thần Nông, bên dưới Vân Tang là vương tử Xương Ý của Hiên Viên. Tiếp theo lần lượt là chỗ ngồi của bốn đại thế gia, sau đó mới là khách khứa của các gia tộc khác.
Xi Vưu ngồi bên phía tộc Thần Nông, vừa nâng chén uống rượu vừa dùng thần thức tìm kiếm Tây Lăng Hành nhưng chẳng thấy nàng đâu cả. Có lẽ vì phạm tội nên nàng đã bị cấm tham dự tiệc Bàn Đào rồi.
Trên Thí Luyện đài bắt đầu diễn ra các cuộc so tài về thần lực pháp thuật, kẻ thắng sẽ giành được tặng phẩm do Vương Mẫu chuẩn bị, đây là tiết mục truyền thống hàng bao năm nay trong tiệc Bàn Đào, có lẽ thoạt đầu chỉ là trò chơi để tăng thêm tửu hứng nhưng ngàn năm nay dần dà đã biến thành cơ hội tuyệt vời để anh hùng các tộc tranh đua cao thấp, khiến tất thảy thiên hạ đều quan tâm, thậm chí vì thế mà nảy ra cả Đại hoang anh hùng bảng.
Vương Mẫu cử thị nữ mở hộp ra, bên trong đặt một đóa hoa đào diễm lệ tươi tắn, lên tiếng giới thiệu: “Đây là Trụ Nhan hoa được thai nghén từ linh khí của Ngọc sơn, chẳng những có thể làm binh khí mà còn có khả năng giúp chủ nhân giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không cần hao phí linh lực.”
Tất cả nữ tử đều ước ao giữ mãi dung nhan tươi trẻ, không khỏi kinh ngạc khẽ ồ lên.
Xi Vưu đã định lấy cớ thay đồ để rời chỗ, nghe thấy tiếng trầm trồ bèn ngoảnh lại nhìn Trụ Nhan hoa, bỗng động lòng dừng bước.
Xi Vưu đứng ngoài âm thầm xem tỉ thí, đến vòng cuối cùng quyết định thắng thua mới nhảy lên Thí Luyện đài, chỉ vài chiêu đã đẩy lùi được kẻ đang thắng thế, đoạt lấy Trụ Nhan hoa nhanh như sét đánh, dương dương tự đắc vẫy vẫy đóa hoa kẹp giữa ngón tay mình về phía Vương Mẫu, ném lại một câu “Đa tạ!” rồi nhảy xuống Thí Luyện đài bước đi.
Cử tọa đều kinh ngạc!
Kẻ đang thắng thế vừa rồi cũng là anh hùng nổi tiếng trong Thần tộc, vậy mà chỉ mấy chiêu đã bị Xi Vưu đánh bại, có điều đám khách khứa chẳng kẻ nào biết Xi Vưu, mọi người đều châu đầu ghé tai xì xào hỏi nhau về hắn.
Vân Tang thầm rủa Xi Vưu nhưng ngoài mặt vẫn phải ra sức che chở cho hắn, còn phải thay hắn nặn ra lý do cho hành vi vô lễ khi nãy nữa.
May sao Vương Mẫu cũng chẳng để bụng, chỉ thản nhiên tuyên bố Xi Vưu tộc Thần Nông đã giành chiến thắng.
Tối qua lúc gặp lại Tây Lăng Hành, Xi Vưu nắm lấy tay nàng, thoạt nhìn có vẻ thờ ơ nhưng thực tế là vừa kiểm tra thương thế của nàng, vừa để lại dấu ấn trên mình nàng. Giờ cứ việc lần theo đấu ấn đó, hắn dễ dàng tìm thấy Tây Lăng Hành.
Trong đêm tối, Tây Lăng Hành ôm một súc vải lụa men theo bờ Dao Trì, vừa đi vừa ngoảnh lại như sợ bị bám đuôi, chân bước về phía vắng vẻ.
Xi Vưu thấy hành động của nàng có phần kỳ lạ nên không gọi mà nấp trong bóng tối âm thầm bám theo.
Dưới bóng trăng, bên bia đá, vị công tử áo gấm đứng đầu ngọn gió, dung mạo tuấn tú, phong thái phiêu dật.
Tây Lăng Hành thong dong tới trước mặt y, “Nặc Nại tướng quân?”
“Chính tại hạ.”
“Ta là Tây Lăng Hành, bạn thân trong khuê phòng của vương cơ Hiên Viên.” Tây Lăng Hành dò xét Nặc Nại một lượt, như thể đang thầm định tình lang giùm bạn.
Nặc Nại dung mạo xuất chúng, danh tiếng lan xa, ở Cao Tân, mỗi lúc y ra đường đều có người xúm lấy nên đã quen với ánh mắt chằm chằm của kẻ khác, có điều chẳng hiểu sao ánh mắt Tây Lăng Hành khiến y nhớ tới vương cơ Hiên Viên bên Ao Tinh trì, trên Đột Bích sơn, đột ngột thấy bứt rứt không yên, vội vàng thi lễ: “Vương cơ truyền tin nói có việc quan trọng, dặn ta đừng tham dự tiệc Bàn Đào mà đợi người ở đây, chẳng hiểu đã xảy ra chuyện trọng đại gì?”
Chuyện quan trọng là không để ngươi trông thấy nàng ta trên tiệc Bàn Đào, Tây Lăng Hành chắp tay sau lưng nghiêng đầu cười hỏi: “Ngươi cảm thấy vương cơ thế nào?”
“Vương cơ huệ chất lan tâm, hoa dung nguyệt mạo.”
“Thật chẳng uổng công vương cơ biệt đãi ngươi.” Tây Lăng Hành trao súc lụa trong tay cho Nặc Nại. “Đây là vương cơ nhờ ta chuyển cho ngươi.”
Nặc Nại lui bước, không nhận lấy súc lụa, vẻ mặt lạnh băng, trong lời nói còn ẩn hàm ý: “Thiếu Hạo điện hạ bất kể tính tình hay tài hoa đều có một không hai, đúng là một đôi trời sinh với vương cơ, nếu vương cơ có gì gửi gắm, cứ việc phó thác cho Thiếu Hạo điện hạ, cần gì tại hạ ra sức.”
Tây Lăng Hành mỉm cười gật đầu, Vân Tang dặn nàng nếu Nặc Nại vui vẻ nhận lời ủy thác riêng thì chẳng những không được giao cho y mà còn phải mắng cho một trận, nhưng nếu y không chịu nhận thì phải nghĩ cách để giao nó cho y.
Tây Lăng Hành dúi súc lụa vào tay Nặc Nại, “Ngươi căng thẳng gì thế? Chẳng qua vương cơ hứng thú với việc chế tạo cơ quan trong trang viện, đây là bản vẽ mà vương cơ vẽ ra mấy năm nay, thật tình muốn nhờ ngươi chỉ giáo thôi mà.”
Sắc mặt Nặc Nại hơi dịu lại, “Danh sư trong vương tộc rất nhiều, tại hạ đâu dám nói xằng chỉ bậy.”
Tây Lăng Hành thở dài, “Ngươi bảo mình không dám nói xằng, vậy ngươi tưởng mấy kẻ mang danh cao sĩ kia dám nói xằng sao? Hơn nữa đừng nói trong Hiên Viên tộc, dù nhìn khắp cả thiên hạ cũng được mấy kẻ có tài như ngươi? Ngươi xem bản vẽ sẽ thấy, e rằng chỉ thua Ao Đột quán của ngươi mà thôi, còn những kẻ khác dù dám nói xằng cũng chẳng có tài mà lên tiếng đâu!”
Nặc Nại nghe đến đây hệt như kẻ hiểu võ gặp được kiếm báu, lòng nôn nóng chỉ hận không thể mở ngay súc lụa ra xem. “Vậy đợi tại hạ xem xét kỹ rồi sẽ bẩm lại với vương cơ.”
Tây Lăng Hành gật đầu cười ranh mãnh: “Vương cơ hành tung bất định, mấy ngày nữa có lẽ sẽ phải gặp sứ giả tới cầu kiến, tướng quân chớ vô lễ mà cự tuyệt ngay từ cửa nữa nhé.”
Nặc Nại mỉm cười hành lễ rồi cáo từ.
Tây Lăng Hành thấy y đã đi xa liền thong dong quay lại, đầu mải nghĩ miên man về Vân Tang cùng Nặc Nại, té ra Vân Tang tỷ tỷ cũng có lúc tinh quái nhường này, nàng càng nghĩ càng tức cười, không nhịn được hoa chân múa tay, cười hinh hích không thôi.
Đột nhiên nàng thấy mặt mình mát lạnh, vừa ngẩng đầu đã thấy ánh trăng vằng vặc, cánh đào trắng như tuyết bay ngập trời, phiêu phiêu phất phất, cuồn cuộn xoay xoay. Hệt như đông giá chợt về, cả đất trời phủ đầy một màu tuyết trắng, càng tăng thêm mấy phần kiều diễm dịu dàng.
Tây Lăng Hành vui thích chìa cả hai tay ra hứng lấy một vốc cánh hoa đưa lên mũi ngửi, thấy hương thơm ngan ngát, rõ ràng là hoa thật chứ chẳng phải ảo ảnh.
Nàng không nén nổi vui thích bắt đầu múa giữa trời “hoa tuyết”, tay áo lúc nhẹ nhàng vung ra, khi đột nhiên thu lại, tư thế uyển chuyển, bước chân thoăn thoắt, hệt như hoa yêu.
Nàng cười khanh khách gọi: “Xi Vưu, có phải ngươi không?”
Bóng dáng Xi Vưu dần dần hiện ra, tay còn cầm Trụ Nhan hoa, lặng lẽ cười giữa ngập trời hoa trắng, phong thái hiên ngang khiến những cánh hoa đào nhu hòa diễm lệ cũng đượm mấy phần anh khí.
Tây Lăng Hành cũng ngưng múa, đăm đăm nhìn Xi Vưu như đang nằm mộng.
Hai người cứ lặng lẽ nhìn nhau qua một màn tuyết trắng, mặc cánh đào bay ngập trời, chẳng rõ là do không đành phá vỡ vẻ đẹp trong khoảnh khắc hay trong lòng đang ấp ủ cảm nghĩ riêng.
Hồi lâu Tây Lăng Hành mới thở dài: “Ta biết ngươi sẽ không chịu nghe lời ta mà xuống núi.”
Xi Vưu chỉ cười không đáp.
Tây Lăng Hành chậm rãi bước tới, chăm chú nhìn hắn: “Hôm qua lúc ngươi đi rồi ta mới nhận ra, dù là cao thủ Thần tộc cũng chẳng mấy kẻ có thể an toàn thoát thân sau khi đánh cắp bảo vật dưới địa cung Ngọc sơn, khi xưa ở Bác Phụ sơn cũng là ngươi cứu ta phải không? Rốt cuộc ngươi là ai thế?
“Ta là ta thôi.”
Tây Lăng Hành quát, “Đừng gạt ta nữa, ta hỏi tên thật của ngươi kia!”
“Đám vu sư tộc Cửu Lê gọi ta là Thú vương, thần tiên trên Thần Nông sơn gọi ta là cầm thú hoặc súc sinh, còn sư phụ và Du Vương gọi ta là Xi Vưu.”
Xi Vưu trả lời hết sức thản nhiên nhưng Tây Lăng Hành lại thấy xót xa khôn tả, hạ giọng nói: “Linh lực của ngươi khá mạnh, ta còn tưởng ngươi là anh hùng nổi tiếng nào trong Thần tộc, ai dè lại chẳng có tên tuổi gì.”
Xi Vưu thổi đóa Trụ Nhan hoa trong tay, Trụ Nhan hoa từ từ nở ra, cao tới cả thước, trên cành đầy những nụ có đỏ có trắng, vô cùng mỹ lệ, hắn trao đóa hoa cho Tây Lăng Hành.
Thiếu nữ nào chẳng yêu hoa đẹp, Tây Lăng Hành liền mừng rỡ nhận lấy: “Tặng ta ư?”
Xi Vưu gật đầu.
“Cảm ơn ngươi.” Tây Lăng Hành vừa dứt lời cảm tạ đã bĩu môi lườm hắn, quay ngoắt đi, “Đồ bịp bợm! Rõ ràng ngươi lợi hại thế này, vậy mà dạo ở Bác Phụ quốc lại ức hiếp ta!”
Nàng leo lên đỉnh núi, kiếm một phiến đá tương đối bằng phẳng ngồi xuống, Xi Vưu cũng ngồi bên cạnh, khẽ gọi: “A Hành.”
Lên google tìm kiếm từ khóa truyenazz để đọc những truyện ngôn tình, tổng tài nhanh và mới nhất nhé! Bên khác copy sẽ thiếu nội dung chương đó ạ!