Cuối cùng Tạ Thanh Trình cũng không cứu được.
Anh bị thương quá nặng, sau khi kéo dài liên tục hơn mười ngày, anh vẫn rời đi trong một đêm mưa hiu hắt, ngừng hơi thở.
Khi ấy Hạ Dư cũng ở suốt trong bệnh viện hơn mười ngày, thật ra trong lòng cậu cũng đã có dự cảm ít nhiều rồi.
Nhưng cậu vẫn không khống chế được.
Cậu bị người được Người Phá Mộng phái tới giám sát cậu đưa tới một phòng bệnh khác, lại đeo đai khống chế lên người lần nữa, cậu gào khóc suy sụp muốn ra ngoài, nhưng chẳng có ai dám thả cậu đi.
Y tá tiêm cho cậu thuốc an thần và thuốc gây mê, trước khi hôn mê, trong một thoáng cậu chợt thấy Tạ Thanh Trình đi tới, tựa như khi xưa bản thân còn nhỏ, anh đi tới bên cạnh giường bệnh của mình, lẳng lặng liếc nhìn cậu, vươn tay, cản mọi người lại, sau đó tháo đai trói của cậu ra.
Cậu muốn gọi tên Tạ Thanh Trình, nhưng trời đất chớp mắt đã đen kịt.
Gây mê lạnh như băng ùa lên, cậu thoát khỏi một đám người coi cậu như cỗ máy, lại bước vào giữa đám người khác coi cậu như quái vật.
Chẳng ai ôm lấy cậu, cởi bỏ xiềng xích giúp cậu nữa.
Người coi cậu như là “người” ấy đã rời đi rồi.
Cậu cũng chẳng còn trông thấy gì hết cả.
Tình trạng của Hạ Dư quá tệ, quá nguy hiểm. Mãi cho tới hơn nửa tháng sau, phía chính phủ cũng không xóa bỏ lệnh hạn chế cho cậu, ngày tang lễ của Tạ Thanh Trình, cậu muốn đi, nhưng mà chẳng có bất cứ một ai có thể đứng ra giải quyết việc thả cậu ra rồi cậu có thể phát bệnh bất cứ lúc nào hết cả.
Trịnh Kính Phong đã đề nghị với cấp trên, thậm chí đánh cược cả danh dự nghề nghiệp của mình, tiếc là vẫn không thuyết phục được suy nghĩ của một vài kẻ ăn không ngồi rồi ấy. Bọn họ nói rằng có thể hiểu cho tâm trạng của Hạ Dư, nhưng sinh mạng quần chúng quan trọng hơn nhiều. Bọn họ không thể tin rằng cậu thật sự có thể khống chế được ở tang lễ, hơn nữa Hạ Dư cũng không phải người thân, vợ chồng, hay là người yêu của Tạ Thanh Trình.
Cho dù có rất nhiều Người Phá Mộng trải qua trận đại chiến lần đó sẵn lòng đứng ra chứng minh với bọn họ, ngay cả tổng chỉ huy cũng kí vào thư liên danh, nhưng lãnh đạo cấp cao phụ trách việc này vì tránh để ông ta bị truy cứu tới, vẫn lựa chọn quyết định cẩn thận.
Quái vật thì làm sao mà có nhân tính được? Giữa người cùng giới thì có thể có tình yêu gì chứ? Quá vô lí, huống chi hai người họ còn hơn kém nhau nhiều tuổi đến vậy, sâu trong lòng lãnh đạo không chấp nhận chuyện này là thật.
Ông gửi trả lại thư liên danh, tan làm rồi, ông ta phải về nhà.
Hôm nay là ngày kỉ niệm kết hôn của ông ta với vợ, ông ta tái hôn, vợ ông nhỏ hơn ông gần bốn mươi tuổi, thích làm nũng, ông ta thật lòng yêu cô ấy, sợ rằng về muộn sẽ khiến cô không vui. Vì thế ông ta xử lí công việc xong, đã gọi điện thoại cho tài xế tới đón.
Thời tiết hôm nay thật đẹp.
Lãnh đạo thoải mái bước đi, quay về nhà.
.
“Mấy người thả tôi ra ngoài đi… Còng tôi lại cũng được, trói tôi lại cũng không sao, để tôi ra ngoài đi, tôi muốn đi gặp anh ấy, tôi muốn đi tìm anh ấy! Nhất định là mấy người hiểu lầm rồi… Anh ấy không chết đâu… Sao mà không cứu anh ấy về được cơ chứ…”
Trong phòng điều trị chăm sóc đặc biệt, vì đề phòng bệnh nhân không khống chế được lao ra ngoài nên đã dựng thêm song sắt.
Ngoài phòng điều trị nơi sâu nhất trong bệnh viện có cảnh sát canh gác.
Một ô cửa sổ u ám.
Ai muốn tới gần đều phải đăng kí lịch hẹn trước.
Ngày hôm ấy, tiếng gào khóc của Hạ Dư vang bên trong suốt một đêm, sởn tóc gáy lại tê tâm liệt phế.
Lính gác đứng ngoài cũng không nén nổi lộ vẻ xót thương.
Từ ngày đó, Hạ Dư chẳng nói gì nữa.
Cậu từ chối ăn suất cơm bệnh nhân dành cho cậu, cũng chẳng chịu uống, không một ai có thể gặp, ngày ấy cậu như mới thật sự hiểu được khi Tần Từ Nham chết, Tạ Thanh Trình chẳng thể đi đưa tang rốt cuộc là có cảm giác như thế nào.
Bởi vì thói đời luôn cần một danh phận.
Như thể có danh phận ấy, ta mới được công nhận.
Cho dù là tình thân, cho dù là tình yêu… Cho dù là một loại tình cảm nào đi nữa, thói đời đều khăng khăng phải biến nó thành một thân phận rõ ràng hợp lí, tiện cho người không liên quan công nhận, sau đó phần tình cảm ấy mới coi như thật sự có tác dụng.
Ta mới có tư cách được đứng hàng đầu tiên để gặp mặt người ta yêu nhất một lần cuối cùng lúc người ấy rời khỏi thế gian này.
Nếu không ngay cả tư cách để nói một câu hẹn gặp lại cũng chẳng có.
Mọi người sẽ nghĩ, thật kì lạ, ta thì có là ai của người ấy?
Lúc anh được chôn cất trong huyệt mộ, cậu gào khóc nơi đây suốt cả một đêm trong chiếc lồng giam mới—— Bọn họ ở ngoài kia mai táng đóa hoa hồng của ác long, mai táng báu vật của cậu, mai táng cầu nối với thế giới của cậu, nhưng không cho cậu đến.
Cậu chẳng thể đi đâu.
Cậu chỉ có thể để linh hồn mình cũng hỏa táng chôn vùi theo Tạ Thanh Trình, cậu hoàn toàn buông bỏ suy nghĩ sống tiếp.
Có lẽ đây là thứ ai ai cũng mong chờ——
Huyết Cổ.
Sơ Hoàng.
Ebola thần kinh, tất cả quái thú do RN-13 tạo nên đều có một kết cục khiến người ta không thể an tâm hơn.
Đây mới thực sự là giết chết hòn đảo Mandela. Từ nay về sau——
Trời đất mênh mang, cực kỳ sạch sẽ.
Nhưng thật đáng tiếc, giữa người với người đều có tình cảm, người cải tạo cũng chẳng phải quái vật, bọn họ cũng để lại ràng buộc trên cõi đời này.
Hạ Dư tuyệt thực, tới ngày thứ sáu sống nhờ vào dịch dinh dưỡng, cuối cùng Trịnh Kính Phong cũng lấy được phê duyệt thăm bệnh thông qua sự giúp đỡ của chính ủy Vương, vào phòng bệnh của Hạ Dư.
Ông không ngờ rằng sau khi Hạ Dư vào đây, bản thân chỉ thăm hỏi một người bệnh vậy thôi mà còn khó hơn cả gặp tội phạm hình sự.
Trịnh Kính Phong nhìn bộ dạng Hạ Dư bị trói trên giường, mắt đỏ hoe lên. Hạ Dư chẳng nhìn ông, trong mắt trống rỗng, không có ánh sáng cũng không có tiêu điểm.
Trịnh Kính Phong thử bắt chuyện với cậu, cậu cũng chẳng phản ứng gì.
Tựa như trong cơn mưa đêm kéo dài hôm ấy không phải chỉ chôn cất mỗi Tạ Thanh Trình, mà cậu cũng đã bị mai táng theo.
Hạ Dư không nói câu nào, chẳng hề cử động.
Cậu chẳng nhìn ai, thứ gì cậu cũng không để ý.
Mãi cho tới khi——
“Chú mang theo một phong thư tới. Là một lá thư được gửi theo lịch hẹn.” Cuối cùng Trịnh Kính Phong cũng biết bản thân mình không nên làm phiền Hạ Dư nữa, ông đứng dậy, đặt phong thư đã bị rách một chút vào trước giường.
Hạ Dư bị trói không cựa quậy được, Trịnh Kính Phong lại mở nó ra trước mặt Hạ Dư.
“Là anh Tạ của cháu viết cho cháu trước khi lên đảo Mandela.”
Chuyển biến từ vật chết thành vật sống trong một chớp mắt như thế nào, trong giây phút này Trịnh Kính Phong đã trông thấy trên người Hạ Dư.
Ông nhìn thấy trong mắt Hạ Dư lập tức lóe ánh sáng, ánh sáng kia rất bi ai, nhưng lại run rẩy, ngập tràn khát vọng đến thế.
Hạ Dư hé miệng, nhưng lâu rồi cậu không nói chuyện, không phát ra được thành tiếng.
Nhưng Trịnh Kính Phong đã nhận thấy.
Ông đưa thư lại gần hơn cho cậu. Cậu muốn xem.
Cậu vội vàng, nóng lòng, bi thương lại nổi điên lên muốn xem…
Cậu trông thấy.
Đó là một phong thư với Tạ Thanh Trình mà nói thật ra đã rất dài rồi.
Tạ Thanh Trình viết trong thư——
Hạ Dư:
Lúc em đọc được lá thư này, giông tố của đảo Mandela hẳn đã yên ổn rồi.
Anh không biết liệu anh có còn sống hay không.
Nhưng dù thế nào đi nữa, anh cảm thấy rằng hiện giờ là lúc để nói ra hết toàn bộ sự thật với em rồi.
Anh biết em oán trách anh quá máu lạnh vô tình, oán hận anh năm ấy, lúc hải chiến ở Quảng Thị đã gửi tin nhắn lừa gạt em.
Em nói với anh, em đã thoát khỏi chấp niệm, có thể cất bước đi tìm cuộc sống mới, anh cảm thấy rất mừng cho em, vốn không nên phá hỏng cuộc sống bình yên của em nữa. Bởi vì anh biết, anh không phải đối tượng đáng để người ta đánh đổi hết thảy. Năm anh mười ba tuổi rồi cha mẹ qua đời đã tiếp nhận trị liệu bằng RN-13, cho dù được thầy chỉ dạy, vượt qua đủ loại khó khăn, vẫn sống như một người bình thường, trở thành bác sĩ, quay về xã hội lần nữa, nhưng sau này anh mới hiểu được, thật ra ảnh hưởng mà Ebola thần kinh đã tạo thành với anh không tồn tại như một căn bệnh.
Hai mươi ba năm, anh sống trong đai trói chẳng nhìn thấy, anh đã quen vô cảm, đã quen xử lí mọi việc lạnh lùng, đã quen đối xử lý trí với từng người với mỗi chuyện. Ta không còn cách nào khác cả, cha mẹ người thân anh đã mất, nếu như anh có chuyện bất trắc, Tạ Tuyết sẽ mất đi chỗ dựa cuối cùng, anh không thể để chuyện ấy xảy ra được.
Bên cạnh có rất nhiều người bảo anh chẳng giống người, không cảm xúc, anh chẳng thể cãi lại, anh cũng không còn lựa chọn khác. Bởi vì chỉ có là cái xác không hồn thì anh mới có thể sống bình an vô sự được.
Cứ thế, lâu dần, anh tựa như đã chẳng còn nhớ được tình cảm mãnh liệt là như thế nào nữa, anh đã quen với việc không mất khống chế trước bất cứ chuyện gì rồi, vậy nên cuối cùng anh muốn sắp xếp cho cuộc sống của các em, cố hết sức bước vào cuộc sống của các em để bảo vệ, lại từ chối mọi người bước vào cuộc đời anh, trở thành biến số chẳng thể nào lường trước.
Đúng là anh vẫn còn sống.
Nhưng anh đã tự biến bản thân mình thành một cỗ máy, một tảng đá, một ngọn cỏ.
Hiện giờ nghĩ lại, có rất nhiều chuyện anh vẫn chưa làm tốt. Anh như một con dao cùn làm tổn thương trái tim rất nhiều người, của dì Lê, của Tạ Tuyết, của Lý Nhã Thu, của Trần Diễn, của cả em nữa.
Anh bị bệnh hai mươi ba năm, đã chẳng còn biết làm thế nào để giống một người bình thường, ở bên người khác thế nào, cảm nhận những điều đơn giản nhất giữa người với người ra sao, tình cảm không cần bị gò bó nhất là gì. Thậm chí ban đầu anh còn chẳng tin rằng trên thế giới này tồn tại tình yêu bất chấp mọi thứ gì hết cả, vậy nên khi ấy anh mỉa mai em, kháng cự em, dạy bảo em. Anh nói em chẳng hiểu thứ gì hết.
Thật là người chẳng hiểu điều gì là anh, Hạ Dư.
Quãng ngày em hi vọng anh có thể hiểu được, quãng ngày em ở bên anh hẳn là khó chịu lắm nhỉ.
Cho dù em đã nói với anh rất nhiều điều, làm ra hành động thế nào đi nữa, anh cũng chẳng tin tưởng tình cảm của em dành cho anh là thật, anh đẩy em đi hết lần này đến lần khác, khiến em máu chảy đầu rơi, hi vọng em cách xa anh càng xa càng tốt, anh không nhìn thấy ánh sáng trong mắt em, anh không tin rằng trong mắt em có ánh sáng.
Hạ Dư, thật lòng xin lỗi em.
Sau đó, em quay về, rất nhiều chuyện đều thay đổi, em đã không còn thích anh. Anh biết việc này với em mà nói là một loại giải thoát, từ nay về sau em không cần phải đối mặt với một đối tượng tới cả cách nhận lấy chân tình của người khác thế nào cũng chẳng biết nữa. Em có trái tim nóng bỏng nhất dũng cảm nhất cố chấp nhất thế gian này, mà lòng anh đã bệnh quá nặng, cũng may cuối cùng không liên lụy tới em.
Nhưng điều này không có ý bảo anh không thích em, Hạ Dư.
Anh chưa từng nói em biết, thật ra anh rất thích em. Đây là tình cảm xưa nay anh chưa từng có, mà sau này cũng chẳng dành cho bất cứ ai khác nữa. Anh bằng lòng bảo vệ em, chăm sóc em, bầu bạn cùng em, anh bằng lòng mặc em tùy hứng, chiều theo tính tình của em, anh bằng lòng đánh đổi tất cả tình cảm vì em, thậm chí là cả mạng sống.
Nhưng mà tất cả những điều này cuối cùng cũng đã quá muộn rồi, những thứ em từng hi vọng có được, giờ đều thành điều chẳng đáng để nhắc tới.
Anh không có gì có thể cho em được nữa.
Anh chỉ muốn thật lòng nói cho em biết vào lúc cuối, em đáng được yêu.
Em đang được yêu.
Và em đã được yêu.
Anh biết em hận anh, không thể không nói, nhận nỗi hận của em khiến anh cảm thấy rất thống khổ, cảm thấy chết lặng, nhưng anh biết đó là điều anh nợ em. Thế nên sự tùy hứng, nóng nảy, lạnh lùng của em sau khi trở về… Anh đều hiểu cả. Anh rất khó chịu, nhưng anh phải nhận, là anh nợ em mà. Anh nợ em cả một trái tim chân thành.
Anh không trốn tránh, anh bằng lòng chịu nỗi phẫn nộ của em, tựa như em đã từng chịu đựng sự vô tình của anh. Em có đâm dao vào tim anh thì anh cũng chẳng tránh né, anh biết trước kia em đã đau đớn đến mức nào.
Anh làm thế, chỉ hi vọng lúc anh rời xa em rồi, em cũng đã xả giận đủ, em có thể tha thứ cho anh, cho dù chỉ một chút thôi cũng được.
Em không hợp với thù hận đâu, Hạ Dư.
Em là một đứa trẻ lương thiện. Tuy rằng (thứ lỗi cho anh lần này, anh muốn nói thật lòng, hi vọng sau này em có thể thay đổi), em có rất nhiều thói xấu, thích tiêu tiền phung phí, bướng bỉnh, kén ăn, không kiềm chế được cơn giận… Giới hạn làm người thật ra cũng chẳng cao, nhưng em vẫn luôn kiêng dè chân tình và mạng người, em có thể có được một tương lai rực rỡ. Anh luôn cho là như thế.
Năm ấy anh chủ động phối hợp với cảnh sát cũng không phải vì anh tin rằng em sẽ cấu kết với Mandela, anh là hi vọng em có thể vươn tay ra với anh, đừng một mình cố chấp gồng gánh tất cả mọi chuyện. Lúc anh tới cục cảnh sát, trong lòng anh nghĩ tới nhiều nhất thật ra là… Em mới chỉ hai mươi tuổi thôi, Hạ Dư.
Năm ấy em chỉ vừa mới hai mươi tuổi thôi.
Anh không muốn cũng không thể để em có bất trắc gì được, vậy nên anh hi vọng em có thể nắm lấy tay anh giống như lúc ở bụi hoa trước kia, tin tưởng anh một lần nữa.
Nhưng cũng vì sự từ chối lẫn cự tuyệt hết lần này tới lần khác trước kia của anh, đã khiến em mất lòng tin với anh rồi, vậy nên anh chẳng có cơ hội để nhận lấy sự tin tưởng của em một lần nữa. Xét tới cùng, vẫn là anh làm tổn thương quá nhiều tình cảm của em.
Hạ Dư. Rất nhiều chuyện trước kia anh làm không tốt.
Anh không biết em có bằng lòng tin tưởng hay không, thật ra có lẽ lúc trước, trước cả khi cùng trải qua sinh nhật tuổi hai mươi với em, trong lòng anh cũng đã chấp nhận lời tỏ tình của em rồi.
Nhưng lúc ấy cơ thể anh rất yếu, các cơ quan đều suy kiệt, đó là di chứng do sử dụng RN-13 quá mức, anh vẫn luôn tới Mỹ Dục điều trị, hiệu quả rất kém. Anh không biết nên thu xếp tình yêu anh dành cho em thế nào, khi đó bác sĩ nói anh chỉ còn sống được năm sáu năm nữa thôi, anh mới cho rằng so với khiến em đau lòng, cướp mất quãng thanh xuân tươi đẹp nhất trong cuộc sống của em để cùng anh đi tới cái chết, không bằng để tất cả dừng lại còn có thể thu xếp được cục diện.
Mãi cho tới hôm nay anh viết lá thư này, viện trưởng Lư nói với anh rằng ông ấy đã bị ung thư phổi giai đoạn cuối, trước đó ông ấy đã kể với mọi người nhưng lại không nói cho anh biết. Anh mới có thể hiểu ra rằng, thật ra không biết chuyện gì còn tàn nhẫn hơn cả bầu bạn.
Nỗi đau bầu bạn cuối cùng vẫn có thể được thời gian chữa lành, tiếc nuối vì không biết chuyện lại thành vết sẹo trong lòng ta mãi mãi.
Thứ lỗi cho anh vì đã kể với em quá muộn, chỉ mong em có thể hận anh ít đi một chút, có điều nếu em vẫn căm ghét anh như vậy thì cũng chẳng sao hết cả. Anh vẫn nhớ dáng vẻ lúc em đối xử rất tốt với anh.
Anh cũng sẽ nhớ mãi dáng vẻ lúc em đối xử rất tốt với anh.
Nhóc quỷ, em là người kiên cường nhất mà anh từng gặp.
Em là người cố chấp nhất mà anh từng gặp.
Em là người duy nhất mà anh thích.
Viết xong lá thư này, anh sẽ đến đảo Mandela, anh không biết có còn cơ hội gặp lại em hay không. Anh cũng không biết tương lai anh sẽ thế nào.
Nhưng tương lai anh vẫn sẽ yêu em.
Cho dù là ở nơi đâu.
Cho dù còn sống hay không.
Hạ Dư, thứ lỗi cho anh Tạ của em không giỏi diễn đạt cảm xúc, hai mươi ba năm qua anh chưa từng bày tỏ tình cảm thật lòng với bất cứ một ai, anh không biết nên bày tỏ thế nào mới đúng, tới viết thư cũng đã rất cứng nhắc. Nếu có chỗ nào khiến em không thoải mái, anh cứ giải thích với em ở đây trước. Anh Tạ của em chỉ là mọt sách cứng nhắc thôi, hi vọng em đừng giận anh, xin lỗi em.
Tạ Thanh Trình
Ngày 7 tháng 3 năm 2025
Chiều tối
Hạ Dư đọc hết lá thư.
Không biết có phải bệnh nặng lắm rồi không, có phải đã điên tới mức chẳng cứu nổi, cảm nhận trong một chớp mắt ấy của Hạ Dư, vậy mà lại muốn bật cười.
Ý cười của cậu tràn từ đáy lòng ra ánh mắt, tựa thủy triều, chẳng biết vì sao cậu lại nghĩ tới dáng vẻ Tạ Thanh Trình cứng nhắc lướt bút, nghĩ ngợi mãi chẳng ra từ phù hợp.
Cậu bật cười, Trịnh Kính Phong và y tá bên cạnh lại luống cuống, hoảng sợ nhìn cậu.
Nhưng cậu chẳng làm gì hết, cậu chỉ cười không ngừng, tiếng cười ấy càng lúc càng lớn, càng ngày càng mất khống chế, cậu cười tới mức nước mắt cũng rơi xuống, nhỏ tí tách lên trang giấy viết thư, nhuốm nhòe nét chữ.
Người viết lá thư này… Người bao dung cậu vô hạn, người lại tin tưởng vào tình yêu vì cậu… Người chỉ yêu cậu suốt cả cuộc đời này.
Cuối cùng lại chết dưới lưỡi dao của người anh yêu.
Anh đã ôm tâm trạng thế nào khi rời đi vậy…
Hạ Dư ngửa đầu, mấy ngày nay cậu từng nhớ lại những lời cậu đã nói với Tạ Thanh Trình lúc tỏ tình vô số lần.
Cậu rất hận bản thân vì sao trước đây lại nói Tạ Thanh Trình là tuyết trên trời cao…
Tuyết…
Trên trời cao…
Mỉa mai đau thấu xương lạc hồn.
Đau biết bao nhiêu.
Lúc Tạ Thanh Trình chết đã đau biết bao nhiêu?
Lại bi thương biết nhường nào? Vậy nên anh mới có thể bảo Hạ Dư tiến về phía trước tìm kiếm một tình yêu khác trong cuộc sống.
Là bởi vì Hạ Dư nên Tạ Thanh Trình mới tin tưởng vào tình yêu không thể thay thế.
Nhưng một khắc cuối cùng tín ngưỡng ấy của anh lại bị phá nát.
Anh là người kiêu ngạo đến vậy, thậm chí còn rơi huyết lệ nghẹn ngào nói mình không phải người tốt nhất…
Với tính cách của Tạ Thanh Trình, một khắc ấy anh đã tuyệt vọng tới sụp đổ đến mức như thế nào mới có thể tự coi nhẹ mình như vậy?
Lúc này Hạ Dư thà rằng Tạ Thanh Trình chưa từng yêu cậu, vậy anh sẽ không bị cậu làm tổn thương sâu đậm đến thế, nhưng Tạ Thanh Trình lại viết trên thư, tương lai anh cũng vẫn yêu em, cho dù anh ở nơi nào, cho dù anh có còn sống hay không.
Cậu nghẹn ngào cười lớn, siết chặt lá thư mỏng manh cùng với tình cảm đậm sâu mà cậu chẳng thể giữ nổi.
Cậu cười cười, lại thở hổn hển, nâng đôi mắt ứa lệ lên nhìn Trịnh Kính Phong, ngẩn ngơ hồi lâu.
Cuối cùng cậu khản giọng lên tiếng, thì thào nói: “… Chú ơi… Xin chú… Có thể giúp cháu một chuyện cuối cùng được không?”
Trịnh Kính Phong vội hỏi: “Sao thế?”
“…” Hạ Dư đỏ bừng mắt nhìn ông, chết lặng nói, “Hiện tại cháu… Không muốn chết nữa… Cháu muốn chữa trị… Cháu sẽ phối hợp trị liệu… Cháu đồng ý… Phối hợp trị liệu… Cháu muốn… Cháu muốn ra ngoài… Cháu muốn gặp lại anh ấy một lần nữa… Nhìn nơi anh ấy chữa bệnh lúc trước, hỏi thêm về một vài chuyện… Anh ấy chưa kịp nói cho cháu biết.”
“Xin chú hãy nhờ chính ủy Vương và nhà họ Vệ giúp cháu với… Cho dù là phải cầu xin Trần Mạn… Cũng được nữa… Nếu không cháu biết rằng những kẻ khác nhất định sẽ không dễ dàng thả cháu ra ngoài đâu…”
“Làm ơn…”
“Làm ơn hãy để cháu tới thăm mộ anh ấy… Để cháu gặp lại anh ấy một lần nữa…”
“Cháu cầu xin mọi người…”
“Cầu xin mọi người… Hãy để cháu gặp người cháu yêu một lần thôi…”
Cậu là người yêu anh, nhưng để gặp anh lấy một lần, lại phải cần được người đời cho phép.
Sau khi Trịnh Kính Phong đi rồi, Hạ Dư ngồi im trên giường, y tá muốn thu lá thư này lại, bị cậu từ chối.
Cậu vẫn đọc nó, đọc nó hết lần này tới lần khác.
Hai má cậu lạnh ngắt, sau khi nước mắt đã khô tạo thành vết như băng lạnh trên mặt.
Bỗng dưng, cậu ngẩn ra.
Cậu chợt phát hiện trong lá thư này có cất giấu một phần dịu dàng cuối cùng——
Trong thư Tạ Thanh Trình gần như kể với cậu tất cả mọi chuyện, lại chỉ có một chuyện duy nhất vẫn không nói cậu biết——
Ba năm trước tin nhắn ngắn ngủi đã lừa Hạ Dư kia không phải do Tạ Thanh Trình gửi, là do sở trưởng Hồ.
Tạ Thanh Trình thà rằng tự mình gánh chịu hiểu lầm duy nhất này, tới chết cũng không kể ra.
Anh không muốn khiến Hạ Dư sau khi biết chuyện, nhớ lại đủ xích mích sau khi hai người gặp lại rồi thấy thống khổ lẫn hối hận.
Bởi vì bản thân Tạ Thanh Trình đã trải nghiệm qua nỗi đau hối hận không kịp này rồi, anh thà cầu xin sự tha thứ của Hạ Dư cũng không muốn nói với Hạ Dư rằng mình bị oan.
Chỉ có mỗi chuyện này, tới chết anh cũng không chịu kể sự thật.
Anh sợ Hạ Dư sẽ đau đớn.
Nhóc quỷ của anh còn rất trẻ, đã chịu quá nhiều đau khổ rồi.
Anh dùng cơ thể anh bảo vệ cậu một lần. Ở đảo Mandela, khiến cậu không biến thành mục tiêu chỉ trích của mọi người.
Hiện giờ, anh lại dùng chân tình của anh bảo vệ cậu lần thứ hai. Trong tương lai, giúp cậu không cần bị nỗi áy náy làm phiền.
Tạ Thanh Trình bị bệnh hai mươi ba năm, đã đánh mắt khả năng diễn đạt yêu thương bình thường.
Nhưng trong giây phút này, Hạ Dư chắc chắn đã cảm nhận được rồi—— Cậu cảm nhận được có bàn tay ấm áp xoa lên mái tóc cậu, cậu ngẩng đầu, nhìn thấy Tạ Thanh Trình đứng trước mặt cậu, không hề mỉm cười, người khác nhìn thấy sẽ tưởng anh chẳng có cảm xúc gì. Nhưng Hạ Dư biết, anh có.
Trong lớp kén bệnh tật hai mươi ba năm, là sự dịu dàng và bảo vệ cố sức giãy giụa thoát ra.
Yêu thương lẫn nuông chiều.
Tạ Thanh Trình, đều im lặng trao cho cậu.
.
Ba tháng sau, lúc Hạ Chí, Hạ Dư dáng người gầy yếu cuối cùng cũng hoàn thành các mục thẩm định đánh giá, sau khi ký tên vào một loạt cam kết, được cho xuất viện.
Tuy rằng cậu có thể cảm thấy vẫn có người âm thầm theo dõi cậu, đề phòng cậu lại gây ra chuyện bạo lực không khống chế được gì đó, nhưng cậu đã chẳng quan tâm nữa.
Cậu tới viện tư nhân Mỹ Dục, là ngày cuối cùng đi làm của viện trưởng già, tình trạng cơ thể ông lão đã rất bất ổn, ông giúp bạn học của ông, chiến hữu của ông giữ bí mật gần nửa đời, hiện giờ cuối cùng cũng đã tới lúc ông tháo giáp về quê rồi. Dường như ông đã biết trước rằng ngày cuối cùng mình từ chức sẽ gặp được một vị khách cực kỳ thanh tú nhưng lại cứng nhắc tựa như cái xác biết đi.
Ông lão mỉm cười, mời Hạ Dư ngồi, pha cho cậu một ly trà gừng giống người bạn cũ, bắt đầu kể về những bí mật đã chẳng cần phải giấu với cậu…
“Đúng thế.” Kể tới cuối, viện trưởng già như nhìn trộm trái tim hấp hối của Hạ Dư, ông bỗng quay đầu lại, run run lấy một quyển bút ký ra, “Vừa rồi chú kể với cháu, giáo sư Tạ vẫn luôn chỉnh sửa hoàn thiện bút ký của lão Tần đúng chứ? Quyển bút ký này… Có thể suy ra từ đây, với xã hội hiện tại này… Khụ khụ, với những người bị hại uống thuốc kém chất lượng, mắc bệnh Ebola thần kinh cấp rồi mạn… Khụ, với những thuốc điều trị họ nghiên cứu, sẽ vô cùng hữu ích.”
Ông ngừng lại hít thở, rồi uống một ngụm nước: “Tiểu Hạ à, quyển bút ký này, còn cả… Những nghiên cứu thuốc ấy, có thể nhờ cháu giúp chú, giúp anh Tạ của cháu giữ gìn hay không? Bọn chú đều muốn thấy người vô tội bị hại có được một sự công bằng…”
Ông nói xong, giao lại một phần bút ký Tạ Thanh Trình để lại chỗ ông cho Hạ Dư.
Trong đôi mắt trống rỗng của Hạ Dư phản chiếu bút ký đã cũ nát này.
Cậu co rụt người lại, muốn tránh né, nhưng chẳng trốn nổi.
Viện trưởng già không cho cậu trốn tránh, kiên định đưa bút ký vào trong tay Hạ Dư. Lúc đầu ngón tay Hạ Dư chạm lên bìa sổ, đã run lên bần bật. Dần dần, trong mắt cậu mang chút cảm xúc nhuốm màu sắc, cho dù vẫn rất bi thương.
Cho dù khi nãy viện trưởng đưa cậu đi xem thử nơi Tạ Thanh Trình từng điều trị, nói rất nhiều lí lẽ phải kiên trì sống tiếp với cậu, cậu cũng chỉ thẫn thờ đứng im bất động, tựa như đã chết, chỉ là tới liếc nhìn nhân gian một cái cuối cùng giúp cho Tạ Thanh Trình mà thôi.
Mãi cho tới khi chuyện Tạ Thanh Trình làm chưa xong được giao vào tay Hạ Dư trịnh trọng lạ thường.
Tay Hạ Dư chạm vào bút ký mà Tạ Thanh Trình đã từng vuốt ve cả trăm lần, lần đầu tiên, viện trưởng già nhìn thấy chút ánh sáng yếu ớt lại đau thương trên người cậu.
Con người có nỗi nhớ nhung thì vẫn còn cơ hội để sống tiếp.
Việc này, viện trưởng già làm bác sĩ lâu đến thế đã hiểu rõ trong lòng.
“Mở ra xem thử đi.”
Hạ Dư chần chừ, chậm rãi, cúi đầu mở bút ký ra.
Bản tài liệu kia vốn là của Tần Từ Nham, trên trang sổ đầu tiên mở ra còn có chữ viết của lão Tần.
Hẳn là lão Tần viết lúc tuổi già, ông lão đã lớn tuổi, tác phong cứng nhắc, nội dung ông viết là: “Nếu có kiếp sau, tôi vẫn bằng lòng cống hiến sức lực nhỏ nhoi của mình để cứu vớt những sinh mạng bị ốm đau dày vò. Nếu như được sống thêm lần nữa, tôi vẫn sẽ đưa ra lựa chọn như vậy, không hề hối hận.”
Hàng chữ phía dưới, phản chiếu vào đôi mắt Hạ Dư là một nét chữ quen thuộc khác, hơi nghiêng nghiêng.
Tạ Thanh Trình viết:
“Tôi cũng vậy.”
.
Hoàng hôn, cuối cùng Hạ Dư cũng tới nghĩa trang.
Mộ của Tạ Thanh Trình được lập bên tượng mộ của Tần Từ Nham. Lúc anh còn sống là học trò Tần Từ Nham yêu quý nhất, nhưng tới cả tư cách thăm viếng Tần Từ Nham công khai mà anh cũng chẳng có.
Hiện giờ cuối cùng anh cũng có thể ở bên thầy, cùng nhau gặp mặt.
Nhưng trên bia mộ anh vẫn chẳng có tên, theo như mong muốn của anh khi còn sống, thứ khắc trên bia mộ trước mắt chẳng qua chỉ là văn bia của Keats.
“Here lies one whose name was written in water”
Người an giấc nơi đây, tiếng tăm ghi lại trên dòng nước.
Bởi vì nhiều chuyện cơ mật, thêm cả có lẽ sẽ có kẻ ác ý lợi dụng chuyện thuốc cấm để đặt điều chửi bởi danh tiếng Tần Tư Nham có liên quan, trong thư hẹn gửi cho Tạ Tuyết, Tạ Thanh Trình đã để lại lời dặn dò cho hậu sự của bản thân, anh không cần ai phải làm rõ chuyện từ chức ở bệnh viện năm ấy cho anh cả.
Anh làm chuyện trong lòng anh muốn làm, bảo vệ tất cả những người anh muốn bảo vệ thôi. Cả đời anh sống rất chính trực, hiếm có chuyện đáng hổ thẹn.
Còn việc mọi người nói về anh thế nào, đánh giá anh ra sao đều chỉ là danh tiếng ngoài thân, anh đã chẳng buồn để ý.
Hạ Dư bước qua thảm cỏ nghĩa trang, đầu tiên đặt một bó hoa lily trước bia mộ của Tần Từ Nham, sau đó ôm Vô Tận Hạ trong lòng, đặt sang bên Tạ Thanh Trình.
Hoa cẩm tú cầu xanh nhạt lẫn phiếm tím được bó bằng lụa mỏng cùng màu, trên bó hoa, phủ một lớp voan trắng tinh.
Cậu bước qua, đứng im, nhìn chữ viết trên bia mộ kia.
Cậu khẽ gọi một câu: “Anh Tạ…”
Đột nhiên, gió nổi lên, tựa như thời gian quay ngược về đầu mùa hè hơn mười năm trước ấy, lụa mỏng phủ trên cẩm tú cầu đột nhiên bị gió thổi bay, tấm lụa mỏng kia bay rất cao, cuối cùng nhè nhẹ phủ xuống.
Không nghiêng không lệch, lụa trắng phủ lên bia mộ Tạ Thanh Trình.
Hạ Dư hé miệng, tim cậu như bị thứ gì bóp nghẹt, khiến cậu đau đớn đến thế, đau tới mức không thể nói ngay thành lời được. Cậu khom người, cúi đầu, quỳ xuống trước bia mộ anh.
“Anh rơi đồ rồi…”
Cuối cùng, cậu như đứa trẻ nhiều năm trước ấy, cầm lấy tấm lụa mỏng mềm mại kia, nghẹn ngào nói với anh.
“Anh ơi, đồ của anh rơi rồi.”
Anh đánh rơi một trái tim yêu anh chưa từng thay đổi trên thế gian này rồi.
Anh có biết không…
Cậu quỳ trước mộ rất lâu rất lâu, nhưng mà, chẳng có người nào vươn bàn tay ấm áp tới cho cậu, cúi gương mặt điển trai lạnh lùng khiến người ta nghĩ tới “tiếng tuyết rơi kề bên hàng trúc”, nhận lụa mỏng cậu đưa, nói với cậu một câu——
“Cảm ơn em.”
Lúc màn đêm buông xuống, cuối cùng Hạ Dư cũng đứng dậy, hai chân đã tê cứng, cậu lảo đảo rời đi.
Quản lý nghĩa trang là người mới đến, bác chờ người cúng viếng nghĩa trang cuối cùng rời đi mới khóa cổng nghĩa trang lại.
Hạ Dư đỏ mắt, rủ mi, nhẹ giọng xin lỗi bác: “Làm bác trễ giờ rồi.”
“Không sao, cũng chỉ muộn hơn chút thôi mà.” Quản lý là một bác trai hiền lành, nhưng có hơi tò mò, chần chờ một lát, bác hỏi, “Bia mộ không tên kia… Rất bí ẩn, bên trên phê duyệt đặt bia mộ vào lăng liệt sĩ, nhưng trước giờ chưa từng nhắc tới anh ta là ai hết cả.”
Bác thử dò hỏi Hạ Dư: “Cháu có biết anh ta là ai không?”
Hạ Dư không trả lời, nếu Tạ Thanh Trình không muốn người khác biết tên anh, thế thì cậu sẽ không làm trái ý của anh.
Bác trai thấy cậu không đáp, cũng chẳng ép, chỉ bảo: “… Nhóc con, xin lỗi nhé, bác hỏi nhiều rồi. Mộ không tên như thế, bác đi làm nửa đời người cũng chỉ gặp hai ngôi mộ thôi, thế nên——“
Hạ Dư thoáng run lên, có sợi dây trong lòng mơ hồ rung động.
“Hai ngôi mộ?”
“Đúng thế, còn một ngôi mộ nữa ở nghĩa trang gia đình phía Tây thành phố bác từng làm khi xưa, do một người đàn ông lập vào ba năm trước…”
Trong màng nhĩ Hạ Dư như vang tiếng trống.
“Là khu nghĩa trang Thanh Lương Sơn phía Tây thành phố ạ?” —— Nơi từng chôn cất cha mẹ Tạ Thanh Trình.
Mắt bác trai trợn tròn: “Cháu biết à.”
Trước mắt Hạ Dư chợt choáng váng, gần như nói không nên lời.
Nửa giờ sau, cậu lái ô tô đến nghĩa trang kia, cổng nghĩa trang đã sắp đóng, nhưng cậu quá bi thương lại đưa thêm tiền nên cuối cùng người gác cổng cũng phá lệ cho cậu vào.
Hạ Dư tìm thấy tấm bia vô danh kia rất nhanh.
Chẳng cần phải hỏi bia mộ này là của ai, lúc cậu trông thấy dòng chữ tiếng Anh xinh đẹp lại mạnh mẽ khắc trên bia mộ, đã biết đáp án duy nhất ấy.
Đáp án kia hóa thành con dao khoét vào tim cậu.
Cậu lảo đảo bước đến, quỳ bộp xuống trước bia mộ, trán cậu tựa vào mặt đá, bóng dáng cô đơn, như người yêu cậu sâu đậm vào ba năm trước ấy.
Nothing of him that doth fade.
But doth suffer a sea-change.
Into something rich and strange.
Trong giây phút này, Hạ Dư bỗng dưng hiểu ra vì sao Tạ Thanh Trình lại muốn một tấm bia vô danh, trên bia chẳng khắc tên, chỉ có một dòng chữ.
Mộ Shelley, mộ Keats.
Tạ Thanh Trình không chỉ vì tiếng tăm ghi lại trên dòng nước mới chẳng để ý tới tên tuổi. Anh còn muốn dùng cách thức này để im lặng bầu bạn bên Hạ Dư.
Tình yêu của bọn họ dù sâu đậm, cũng chẳng có danh phận, không được người đời chấp thuận, chẳng xin được một lần hợp táng.
Nhưng sâu trong thành phố, chỉ có hai bia mộ vô danh, có khắc hai dòng bí mật chỉ mỗi bọn họ biết được, có khắc năm tháng thanh xuân của bọn họ vậy thôi.
Nước mắt Hạ Dư như vòng ngọc đứt dây, tay cậu vuốt ve nét chữ quen thuộc trên bia, như xuyên qua thời gian phủ lên bàn tay loang lổ vết máu của Tạ Thanh Trình.
“Anh ơi…”
Trước ngôi mộ này, cậu bật khóc nức nở. Chẳng ai biết cậu đã đánh mất thứ gì, cũng như chẳng ai biết tới rốt cuộc là ai an táng ở nơi đây.
Cả đời này, chỉ có mỗi Tạ Thanh Trình bầu bạn với cậu như thế, biết bí mật của bọn họ.
Chỉ mỗi một mình Tạ Thanh Trình, cho dù tên mình phai mờ, bỏ qua danh tiếng của mình cũng muốn ở bên cạnh cậu.
Sẽ chẳng có bác sĩ Tạ thứ hai.
Anh đã ở bên cậu, ở tấm bia vô danh dưới lớp cỏ xanh rờn, bầu bạn dài lâu, an giấc ngàn thu.
Giông tố Mandela cuối cùng đã hoàn toàn trôi qua.
Bởi vì bút ký của Tần Từ Nham năm ấy có tác dụng rất lớn, những người bệnh trước kia bị ảnh hưởng đều thuận lợi có được thuốc điều trị, sau khi khỏi bệnh, không còn tái phát nữa. Mà những nhà nghiên cứu khoa học trên đảo, gồm cả Anthony… Bọn chúng đều phải nhận án phạt từ hai mươi năm tới tử hình, leng keng bỏ tù, đền tội với lưới trời.
.
Trong nhà Tạ Tuyết và Vệ Đông Hằng bày tấm ảnh chụp chung một nhà ba người duy nhất với Tạ Thanh Trình, Tạ Thanh Trình trong ảnh mãi mãi ngừng lại ở năm ba mươi sáu tuổi ấy, chẳng hề già đi nữa.
Trước khi đi làm mỗi ngày Tạ Tuyết đều nhìn ảnh chụp một cái, cái liếc mắt này liếc đi liếc lại, ngày qua ngày, năm qua năm…
“Anh ơi, chào buổi sáng, em đi đây.”
“Anh ơi, em về rồi.”
Tựa như trước kia, lúc Tạ Thanh Trình một mình chăm sóc cô trưởng thành, ngày ngày Tạ Tuyết đều chào hỏi người trong ảnh chụp, đó là thói quen từ lúc còn nhỏ của cô.
Nhưng năm ấy Tạ Thanh Trình sẽ đáp lại cô một câu: “Đi đường cẩn thận.” Hoặc là “Hôm nay học ở trường thế nào?”
Giờ chẳng còn nữa.
Nhưng Tạ Tuyết vẫn cảm thấy rằng cô còn có thể nghe được giọng nói của anh.
Bởi vì anh ở ngay trong tim cô.
Cứ thế, ngày ngày đóng cửa mở cửa, nhìn ảnh chụp… Thoắt cái đã vài chục năm trôi qua.
Sau đó, Tạ Tuyết chẳng cần đi làm nữa.
Cô đã tám mươi tuổi rồi.
Bóng hình cô khom khom đi mua này mua nọ.
Sau khi mua đồ quay về, là một khay trứng gà mới, hành, chân giò hun khói và tôm nõn, cô làm cơm chiên Dương Châu, cho tới giờ cũng chẳng bỏ đậu Hà Lan vào.
Đây là món ăn cô thường làm nhất.
Nha Nha đã sang Mỹ du học, học Y, lại làm giáo sư Y học, ngay ở trường Tần Từ Nham từng theo hồi còn trẻ. Hiện giờ cũng chỉ còn hai người Tạ Tuyết và Vệ Đông Hằng, vợ chồng già không ăn nhiều, hương vị của chút cơm chiên này vẫn trọn vẹn, đầy đủ dinh dưỡng, cho thêm ít mỡ, lại thêm một bát rau dưa, ngon hơn bất cứ món nào khác.
Trước kia anh cô chăm sóc cô như thế. Chăm sóc cô từ nhỏ đến lớn.
Mỗi lần cô làm bát cơm chiên này, cô lại cảm thấy anh vẫn đang chăm sóc bọn họ trong bóng tối.
Cô mỉm cười ăn cơm, đuôi mắt có nếp nhăn, cả đời cô sống rất hạnh phúc, nhưng cô biết đó là vì có một người sau khi họ mất cha mẹ, vẫn chăm nom cô, bảo vệ cô bằng cả sinh mạng.
Cô cúi đầu ăn cơm chiên.
Nóng hôi hổi, từng hạt rõ ràng, cô làm ngon hệt như anh khi xưa.
Sau khi cơm nước xong, cô bật TV lên với Vệ Đông Hằng, TV chiếu một bộ phim, cô cũng tham gia sản xuất cùng với Vệ Đông Hằng.
Kịch bản là Hạ Dư viết. Về sau Hạ Dư vẫn luôn sống cô độc một mình, cậu không rời bỏ nhân thế, có lẽ vì cậu vẫn còn vài chuyện chưa làm xong, có vài chuyện xưa chỉ có mỗi cậu mới có thể làm người kể trọn vẹn được mà thôi.
Cuối cùng, sau bao nhiêu năm, tất cả tài liệu đều đã được tiết lộ, cuối cùng Hạ Dư vẫn chọn cách thức trở thành đạo diễn, kể lại chuyện năm ấy chân thật, trọn vẹn cho mọi người.
Tạ Tuyết cảm thấy cậu chọn diễn viên không phù hợp, dù thế nào cũng không hài lòng với diễn viên đóng Tạ Thanh Trình được chọn. Cô luôn chê người này không đủ cao, người kia không đủ nam tính, người nọ thô kệch quá, người đó không thông minh.
Cô nói: “Sao chẳng có một người nào giống anh trai tôi được 30% thôi thế hả? Hiện giờ khoa học kỹ thuật phát triển thế rồi, kỹ thuật trang điểm lẫn chụp ảnh đều… Đều tốt như thế, sao lại không có một ai khiến tôi trông thấy bóng dáng của anh ấy thế này?”
Hạ Dư đáp: “Anh ấy chẳng có bất cứ ai thay thế được hết cả.”
Cuối cùng bộ phim vẫn quay, diễn viên tạm được, nhưng ít ra chuyện kể đều chân thực, tìm tới những người chưa qua đời cũng đều rất phối hợp hợp tác sản xuất. Thậm chí ngay cả Trần Mạn không còn gặp mặt Hạ Dư nữa, sau khi nhận được thông tin của dự án này cũng bay về từ châu Âu xa xôi, hợp tác khôi phục lại hoàn toàn cảnh tượng của năm ấy.
Tạ Tuyết vẫn không hài lòng với bộ phim này, cô cảm thấy diễn viên đóng Tạ Thanh Trình và Vệ Đông Hằng trẻ tuổi không hợp, nhìn thấy làm cô khó chịu, chẳng có tí gì cảm giác của năm ấy.
Nhưng cô rất thích nhạc cuối bộ phim.
Nhạc cuối phim là Hạ Dư tự mình viết.
Giai điệu du dương, mang theo chút cảm giác phim Hong Kong phong cách xưa.
Lời hát vấn vương trong phòng khách rèm cửa bay bay——
Gió thổi qua, lụa mỏng tung bay.
Nhặt lấy giấc mơ sặc sỡ.
Em mơ nửa đời, người có biết?
Cửa hé, sách mở,
Nét chữ ghi trên bìa trong đã nhạt màu,
Em đọc ngàn lần, người có hay?
Lúc cô độc, chỉ muốn đi xa,
Em cố gắng đã lâu, người hiểu chứ?
Ôm anh như ôm tuyết, hôn anh tựa hôn sương,
Yêu anh như uống ly rượu độc,
Cầu mà chẳng được tới đớn đau.
Khi nào anh mới thưởng em ly rượu bi thương,
Em đã bao lâu chẳng gặp anh rồi,
Ngay cả nỗi đau khi xưa cũng hóa dịu dàng,
Anh biết chăng?
Đêm nay anh sẽ tới giấc mơ của em chứ?
Đêm nay anh có thể ôm lấy em không?
Đêm nay cánh cửa ấy mở ra, anh vẫn đứng bên cửa sổ ngắm hoa tựa tuyết kia chăng?
Bình minh, lại tới chiều tối,
Nhớ anh cũng từng chịu đựng đêm dài,
Em vẫn kiên trì rất lâu, anh biết chứ?
Một năm qua, lại một năm nữa,
Ký ức mọi người đều đã nhạt phai,
Chỉ còn em chẳng thể nào quên, người biết chăng?
Gió ngừng, lụa lại rơi,
Chẳng còn ai nhặt lên giấc mơ nhuộm màu,
Phủ trước mặt anh, người an giấc ngàn thu, anh biết chăng?
Người an giấc nơi đây, tóc em điểm bạc, người biết chăng?
Nhạc cuối phim phát xong.
Màn hình dần chuyển đen.
Trên màn hình nhẹ hàng hiện hai hàng chữ:
Gửi người đã cứu vớt cả đời em.
Gửi người dành cả đời cho cứu rỗi.
Chữ nhạt dần, biến mất.
Cuối cùng một hàng chữ chậm rãi sáng lên, tựa như ánh nắng ban mai—— Đúng thế, người kia đi rồi, mỗi ngày Hạ Dư đều dậy rất sớm, cậu đang đợi chờ sớm mai, chờ khoảng khắc nắng sớm cuối cùng cũng bừng lên——
“Hết phim”