Cha mẹ của A Trạch được chôn chung một ngôi mộ, trong khi gia gia của cậu lại chôn cất một mình.
Hầu hết các ngôi mộ khác đều như vậy.
Đồ cúng cũng được bày biện mà không hề thiên vị, mỗi phần trước mộ đều như nhau.
Nhờ sự giúp đỡ của Tấn Tú, A Trạch thắp từng nén hương và nến trước mỗi ngôi mộ, đồng thời còn quỳ lạy đầy đủ.
“Thường thúc, Thường thẩm, cháu là A Trạch, cháu thay mặt cho A Long đến thăm mọi người đây...”
“Tiền đại bá, cháu thay A Ny đến gặp người đây...”
“Lý thúc, Lý nãi nãi...!Cháu thay mặt A Cổ đến tế bái người...”
...!
A Trạch quỳ lạy từng ngôi mộ, dập đầu vài cái trước từng nấm mồ, cuối cùng mới quay trở lại ngôi mộ của cha mẹ và gia gia của mình một lần nữa.
“A Trạch, ta đã học qua phép Thỉnh thần Tống thần.
Ta sẽ giúp ngươi gửi khí tức của đồ cúng vào Âm Ti.”
Tấn Tú vừa nói, vừa bấm niệm pháp quyết để thi pháp; từng tia sáng yếu ớt chợt vụt ngang các ngôi mộ.
Cả A Trạch và Kế Duyên đều có thể trông thấy hương khói của đàn hương cấp tốc xoay quanh trên mười ngôi mộ nơi đây.
Thỉnh thần và Tống thần được coi là một loại pháp thuật được truyền bá rộng khắp, cũng không giới hạn ở mỗi Tiên đạo, huống chi là “Thần”, kể như là có công dụng đại chúng đấy.
Chữ “Thần” ở đây không chỉ đề cập đến thần linh, mà còn dùng để nói đến một vài sự vật thần dị.
Pháp này có thể được coi là một loại pháp thuật mang tính chất giao tiếp, còn được gọi là “Thỉnh pháp và Tống pháp” theo cách nói của Tiên đạo.
Tất nhiên, không thể so sánh Thỉnh thần với Câu thần trong thể loại pháp thuật này.
Đây cũng tương tự với trường hợp khi những người bình thường và một đám đông người hâm mộ cùng tụ tập một chỗ, sau đó hét gọi một người nổi tiếng để mời y đến.
Hành động này có hiệu quả hay không và hiệu quả ra sao còn tùy vào cách nghĩ của từng người khác nhau.
Do đó, vấn đề chủ yếu nằm ở chỗ, dùng ở đâu, và có thuận tiện hay không.
“A Trạch, nhìn xem! Hương khói không bị tán loạn, chứng tỏ có người của Âm Ti đến dẫn họ đi rồi.
Đừng lo lắng!” Nghe xong, rõ ràng là A Trạch rất vui vẻ, sau đó nhìn về Kế Duyên.
Hắn cũng lập tức gật đầu, ý bảo là Tấn Tú nói chính xác.
“Vậy tốt quá, cha mẹ và gia gia thực sự vẫn còn ở đó sao? Ta có thể nhìn thấy họ không?”
“Chắc chắn là được mà.
Kế tiên sinh vẫn ở đây này, còn có tín vật của chưởng giáo nữa; bọn họ không dám ngăn cản đâu.”
Tấn Tú khôn khéo nịnh nọt Kế Duyên một câu, để rồi khi quay đầu lén lút nhìn trộm Kế Duyên một cái, chỉ thấy hắn lắc đầu và mỉm cười.
Nàng biết, mình đã nịnh nọt đúng chỗ rồi.
Thôn làng của A Trạch được gọi là thôn Miếu Động.
Kể từ khi ngôi làng bị tàn sát bởi bọn binh phỉ hơn hai năm trước, nơi đây đã bị bỏ hoang hoàn toàn, và ngay cả đất nông nghiệp xung quanh cũng không được canh tác.
Không chỉ ở thôn Miêu Động, mà hai thôn làng gần đó cũng diễn ra tình trạng tương tự; còn những nơi tương đối hẻo lánh thì triệt để trở thành một vùng tử địa.
Lần này, Kế Duyên không bay lên trời; mà thay vào đó, hắn đưa A Trạch và Tấn Tú gấp rút đi bộ để dễ dàng quan sát thế giới trong động thiên này.
Tất nhiên, sức đi của người bình thường rất yếu, và Kế Duyên thực sự không thể để mọi người chậm rãi mà đi được.
Thay vào đó, hắn lại tác động theo một cách bất tri bất giác, khiến ba người vô thức bước đi như bay trong lúc băng ngang một số địa phương đặc biệt.
Lúc đi ngang qua hai ngôi làng khác, không gian cũng vô cùng im ắng.
Mùi hôi thối trộn lẫn giữa xác chết và các mùi ẩm mốc khác vẫn còn lẩn quẩn nơi đây.
Sau đó là một con đường núi dài, khá hoang vu, tựa như không có bất kỳ người sống nào ở miền quê của A Trạch cả.
Ngoại trừ chim bay thú chạy, nhóm ba người Kế Duyên là những người sống duy nhất tại đây.
Cảm giác này rất ngột ngạt, ít nhất là đối với A Trạch và Tấn Tú.
Người trước thì đau lòng, còn người sau thì chấn động vì chứng kiến thảm cảnh của một số dân làng, từ đó mà khiến tâm cảnh cũng bị ảnh hưởng đôi chút.
Vốn dĩ trước đó, cả hai vẫn không ngừng tán gẫu, nay cũng im lặng hơn.
“Dù ở đâu, nhìn lại lịch sử, phân tranh luôn là chủ đề không bao giờ có hồi kết.
Có dạng phân tranh chỉ là cãi nhau, nhưng cũng có dạng phân tranh gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Ân ân oán oán, sẽ không bao giờ chấm dứt.
Chỉ cần không phải Thánh hiền, vậy sẽ không thể nào kết thúc được.
Cho dù không chiến đấu với nhau nữa, nhưng sự oán hận vẫn tồn tại trong lòng.
Vì vậy, chỉ có thể cố gắng nghĩ cách để phòng ngừa những chuyện này mà thôi.”
Kế Duyên nói xong thì nhìn về phía Tấn Tú.
“Vẫn luôn ở trên núi tu hành thì khó mà có cơ hội trông thấy sự tàn khốc của thế gian.
Nhưng nếu suy nghĩ kỹ lại, trong Đạo tàng của sư môn ngươi hẳn là có nói từ đầu, chỉ là chưa đến lúc ngươi có thể lĩnh ngộ mà thôi.
Sau này nếu có cơ hội, nên xuống núi mà xem xét thêm một chút.”
“Vâng!”
Tấn Tú vội vàng thi lễ với Kế Duyên một cái.
Dù A Trạch có thể coi Kế Duyên như một vị trưởng bối nhưng bản thân nàng vốn là đệ tử của Cửu Phong Sơn nên cũng không dám có cùng cách đối xử như thế.
Nàng biết Kế tiên sinh là một vị cao nhân cực kỳ cao thâm.
Lắng nghe cao nhân dạy bảo, vậy không được phép bỏ qua lễ nghi.
Như thể chỉ mới vừa hồi phục lại sau khi nghe xong những gì mà Kế Duyên đã nói trước đó, A Trạch liên tục bước đi, nhìn về Kế Duyên rồi nói.
“Tiên sinh, ngài nói rằng, phân tranh sẽ không bao giờ biến mất, chỉ có thể cố gắng phòng ngừa.
Vậy, làm thế nào mới có thể phòng ngừa?”
“Hỏi rất hay!”
Kế Duyên chắp một tay sau lung, vừa đi, vừa vẫy nhẹ tay phải về phía trước.
Trong mắt A Trạch và Tấn Tú, Kế tiên sinh đang vẽ tới vẽ lui, vạch ra thật nhiều nét dọc, nét ngang.
Cuối cùng, một mảnh lưới gồm từng ô nhỏ được cấu thành từ ánh huỳnh quang lấp lánh xuất hiện trước mặt Kế tiên sinh, và hình ảnh đó còn biết di động theo từng nhịp bước chân của cả ba người nữa.
“Đây là gì ạ?”
“Bàn cờ.”
A Trạch và Tấn Tú nhìn nhau, cả hai đều nhận ra nét nghi hoặc trong mắt đối phương.
“Bàn cờ ư?”
Chẳng lẽ phương pháp chính là đánh cờ?
Vẫn nhìn bàn cờ trước mặt, Kế Duyên nheo mắt nói
“Ta hỏi các ngươi, điểm mấu chốt để nắm giữ một ván cờ là gì?”
A Trạch cau mày, Tấn Tú cũng trầm tư suy nghĩ.
Tuy rằng nàng là một tu sĩ, nhưng tốc độ tim đập của nàng cũng mơ hồ tăng nhanh.
Đây giống như là một lần cao nhân giảng đạo vậy.
Nếu được Kế tiên sinh chỉ điểm trong dịp này, vậy chắc chắn sẽ nhận được lợi ích to lớn.
Sau khi suy nghĩ cẩn thận, cả hai gần như đã có câu trả lời, thế là mạnh miệng nói thẳng.
“Là quân cờ, bàn cờ?” “Là người chơi cờ và kỳ nghệ của cả hai bên?”
Kế Duyên mỉm cười.
“Các ngươi nói đúng cả, nhưng điều quan trọng nhất...!là quy tắc của ván cờ này!”
Kế Duyên nhìn ra thiên địa của động thiên này.
“Không có luật lệ, sẽ không có giới hạn.
Thánh hiền hiểu nhân tính, thế là đặt ra các quy tắc để kiềm chế nó.
Vua chúa mượn các nguyên tắc của Thánh hiền để tinh chỉnh lại thành luật pháp, thi hành đe dọa bạo lực để quản lý vạn dân.
Tuy hành vi này mang tính chất khá sắc bén, nhưng cũng có thể xem như là đang bảo vệ người dân.
Mà các quy tắc kia không chỉ được áp dụng cho nhân đạo, mà còn cho vạn vật, kể cả vùng thiên địa này.”
Trong khi nói, Kế Duyên duỗi tay ra, điểm vào một khoảng không ở phía trước.
Trên bàn cờ được điểm lên từng “tinh vị”(*) sau đó mơ hồ có từng nước cờ hiện ra.
Tiếp theo, toàn bộ bàn cờ dần dần biến mất, ánh huỳnh quang cũng tan biến hẳn đi.
(*)Tinh vị: là điểm giao nhau của các đường thứ tư tính từ phía trên, phía dưới và hai bên trái phải.
Vì vậy, một bàn cờ vây sẽ có 4 điểm tinh vị.
Từ 4 tinh vị gốc, người ta tính luôn các điểm nằm giữa đường nối của các tinh vị gốc trên cùng 1 đường thẳng (dọc, ngang) nên có thể tính tổng là 8 tinh vị.
Có người gọi là 8 tinh vị và 1 thiên nguyên (điểm nằm giữa bàn cờ)
A Trạch ngây ngẩn cả người, thế rồi đột nhiên hỏi lại.
“Nhưng chúng ta rõ ràng cũng có một quốc gia, cũng có quy tắc.
Vậy, hà cớ gì mà những người trong làng của ta vẫn bị giết chứ? Tại sao các quốc gia khác lại tấn công chúng ta?”
“Về vấn đề này, có lẽ là các quy tắc kia không được duy trì đúng cách; hoặc là, các quy tắc ấy vốn đã sai lầm, hoặc là...!Quy tắc này có bố cục quá nhỏ!”
Trong lúc trả lời nghi hoặc của hai người, cả ba đã vô thức băng qua một đoạn đường rất dài.
Khi A Trạch và Tấn Tú nhận ra, con đường dưới chân họ đã không còn cảnh hoang vu xơ xác nữa, mà đằng xa lại là những cánh đồng xanh tươi.
Lúc này, tốc độ của Kế Duyên mới chậm lại.
Khoảng một khắc sau nữa, cả ba người cuối cùng cũng nhìn thấy một người sống khác.
Đó là một lão nông dân đang bận rộn nhổ cỏ dại ngoài đồng.
Người đó mặc áo vải thô, đội mũ rộng vành, vác cuốc trên vai.
Lão đang cúi người, đưa tay nhổ tận gốc từng cây cỏ ngoài đồng rồi ném sang bên đường.
Kế Duyên có thể cảm thấy rằng, A Trạch rõ ràng đã thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy người sống.
Lão nông đằng kia đứng thẳng dậy; thấy ba người qua đường với quần áo chỉnh tề thế này, trông không hề giống với người nghèo khổ, nên lão cũng chẳng nói lời nào.
Chỉ là, lão không thể không tự hỏi rằng, tại sao ba người trông như có xuất thân từ gia đình phú quý thế kia mà lại đi đến tận địa phương này? Chẳng lẽ họ không sợ bị cướp giật giữa những năm tháng đầy bất ổn như hiện tại ư?
Lão nông không nói gì, nhưng Kế Duyên lại dừng chân và mở lời.
“Vị lão trượng này, phía trước có phải là quận thành Bắc Lĩnh hay không?”
“Vâng vâng, đúng rồi! Sau khi vượt qua Bắc Sơn lĩnh này sẽ là quận thành đấy.
Nhưng năm nay không bình yên cho lắm.
Nếu muốn vượt qua Bắc Sơn lĩnh, ba người các vị nên đến tá túc tại các thôn trấn gần đó và chờ đợi ít lâu.
Cứ tụ tập một nhóm người lại rồi cùng kết giao mà lên đường với nhau, như vậy sẽ an toàn hơn.”
Lão nông nhìn con đường phía sau nhóm người Kế Duyên, cũng không thấy xe ngựa đi theo gì cả.
Tiếp đó, lão lại nhìn con đường phía trước, chỉ thấy con đường kéo dài thẳng tắp đến phương xa.
“À, ba vị từ đâu tới đây?”
A Trạch lập tức có chút kích động, vội vàng đáp lại.
“Chúng tôi đến từ phía Nam bên kia của ngọn núi đấy.
Có một số thôn làng ở đó, nhà cháu ở thôn Miếu Động.
Lão bá, lão bá có từng nghe qua nơi đó chưa? Lão bá có thấy hay nghe nói có ai chạy nạn từ bên kia tới đây hay không?”
A Trạch nói với giọng mong mỏi rõ rệt.
Tấn Tú tỷ tỷ đã nói với cậu bé trước đó rằng, trong vụ thảm họa binh tai kia, có lẽ không chỉ có năm người bọn họ chạy thoát được.
Bọn họ có thể trốn, vậy những người khác cũng có khả năng trốn được.
Có khi, họ không chạy về phía Kình Thiên sơn, mà chạy sang hướng khác rồi.
“Phía Nam ngọn núi?”
Khu vực này nằm gần với rặng núi Kình Thiên; dù không được tính là vùng biên giới giáp ranh với Kình Thiên sơn, nhưng những nơi có dân cư sinh sống đều bị bao quanh bởi những gò núi.
Dân làng tại đây đều phân bố rải rác ở những nơi thế này.
Đất rộng người thưa chính là lời miêu tả xác đáng nhất về nơi đây.
Nhưng về tên địa danh và đường xá, dân bản xứ cũng có thể hiểu rõ một chút.
Lão nông vô thức nhìn về phương Nam, sau đó nhận ra hôm nay trời đầy mây mù.
Thế là, dường như vì nhớ đến một chuyện nào đó mà lão ta run rẩy toàn thân, sắc mặt sa sầm dần.
“À...!Vậy thì, ta chưa từng thấy qua...!Ta, ta vẫn còn việc phải làm, còn việc phải làm.”
Vừa nói, lão vừa cúi đầu xuống ruộng, rời khỏi khu vực ven đường này với tốc độ nhanh hơn rất nhiều.
Không những thế, cả người lão như càng lúc càng nấp kỹ vào những khóm hoa màu giữa đồng ruộng.
“Lão bá...”
A Trạch còn muốn nói chuyện tiếp, nhưng Kế Duyên đã lắc đầu với cậu.
“Lão trượng, ngươi cứ làm việc tiếp đi, chúng ta cáo từ!”
Kế Duyên thi lễ một cái, sau đó dẫn hai người còn lại bước nhanh về phía Bắc Sơn Lĩnh.
Mãi đến khi không nghe thấy tiếng bước chân nữa, lão nông đang bận nhổ cỏ ngoài đồng kia mới cẩn thận đứng lên giữa đám cây trồng.
Nhìn trước nhìn sau đôi lần, lão cũng không tìm thấy nhóm ba người Kế Duyên đâu cả.
Nhưng khi dõi mắt trông về phía xa, lão lại nhìn thấy ba điểm be bé đại diện cho ba người kia trên con đường xa xăm dẫn đến phía Bắc.
Lão nông sửng sốt một chút, sau đó thân thể chấn động mấy cái, cảm thấy cả người mình không ngừng phát lạnh.
“Ái chà chà, hôm nay mình phải về sớm rồi!”
Người ở hướng Nam bên kia ngọn núi đều đã chết từ lâu, ở đâu lại có ba người từ vùng đó xuất hiện như thế này chứ? Đúng là chuyện lạ giữa ban ngày rồi.
Với ý nghĩ xúi quẩy này trong đầu, lão nông lại nhổ thêm một ít cỏ dại, tùy tiện quét sơ ruộng đồng rồi bước lên bờ ruộng, xỏ đôi giày rơm vào trước khi vội vã rời đi với chiếc cuốc trên vai.
“Kế tiên sinh, lão nhân đó hình như rất sợ chúng ta?”
Đạo hạnh của Tấn Tú còn nông cạn, chưa đủ khả năng quan khí, nhưng nàng có thể nhận ra sự chuyển biến thái độ của lão nông dân kia đối với nhóm mình.
“Ừm, lão trượng kia nghĩ chúng ta là quỷ, thế nên mới tránh như tránh tà.”
Kế Duyên nhìn A Trạch, nói.
“A Trạch, sau này mà có nói chuyện với người khác, để tránh phiền phức, nếu thật sự muốn nhắc tới chuyện xảy ra ở phía Nam ngọn núi kia, ngươi cứ nói là mình may mắn sống sót nhờ chạy nạn kịp thời.”
“Vâng, sẽ nhớ kỹ ạ.”.